QUAN HOÀNG BÁT

Ông Hoàng Bát (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Ông Bát Quốc. Màu sắc đại diện: màu vàng

Quan Hoàng Bát Nùng Chí Cao

Quan Hoàng Bát Nùng Chí Cao

Quan Hoàng Bát là vị thánh hoàng trong hàng Thập Vị Thánh Hoàng trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt. Và người anh hùng Nùng Chí Cao đất Cao Bằng được cho là hiện thân của Quan Hoàng Bát, ông là vị anh hùng nổi tiếng được nhân dân trong vùng, đặc biệt là người Tày Nùng phụng thờ do đã có công đuổi đánh quân Tống bảo vệ biên cương bờ cõi, sự bình yên cho nhân dân ta.

“Gương anh dũng ngàn xưa lưu để
Đất Cao Bằng tú khí chung linh
Trời Nam có Đức Thánh linh
Họ Nùng – Đệ Bát anh linh tuyệt vời”

Thần tích Quang Hoàng Bát Nùng Chí Cao

Về lịch sử ông Bát Nùng tên thật là Nùng Chí Cao, sống vào thế kỷ XI ở châu Quảng Nguyên nay thuộc tỉnh Cao Bằng. Nùng Trí Cao sinh năm 1024 ở động Tượng Cần (Làng Gia Cung – Thị Xã Cao Bằng) châu Quảng Nguyên; con thủ lĩnh Nùng Tôn Phúc và bà A Nùng. Thời vua Lý Thái Tông (1028–1054), vua Lý cử đại thần và các tướng lên Quảng Nguyên năm lần, trong đó lần thứ hai năm Tân Tỵ (1041) vua cử một tướng ẩn danh lên thuyết phục được Nùng Trí Cao không theo nhà Tống. Vua cho Trí Cao cai trị châu Quảng Nguyên và 4 động là: Lôi Hòa, Bình, Bà và Châu Tư Lang. Trí Cao được về kinh đô Thăng Long học. Ngày 01/9/1042 năm Nhâm Ngọ, vua cử Ngụy Trang lên Quảng Nguyên ban cho Trí Cao chức Thái Bảo và đô ấn; Năm 1053, chỉ huy sứ Vũ Nhị đem quân lên cứu viện Trí Cao.

Theo truyền miệng, Trí Cao được viên tướng ẩn danh bảo lãnh đưa về kinh đô ăn học 3 năm, từ năm 17 tuổi đến năm 20 tuổi. Gia đình vị tướng hết sức giúp đỡ Trí Cao. Nùng Trí Cao vốn thông minh, vạm vỡ, khôi ngô, tuấn tú, được học kinh sử, mở mang trí tuệ, mở rộng tầm nhìn. Ở Thăng Long Trí Cao thường đi lại nhà vị tướng ân nhân của mình và thường trò chuyện thân thiết với cô con gái xinh đẹp, nết na của Ông. Dần dà, Trí Cao đã làm rung động trái tim người con gái kinh đô. Trai tài, gái sắc yêu nhau say đắm, vị tướng đã đồng tình gửi con gái cho. Người con gái đó thường gọi là nàng Cầm, gia đình nàng gia giáo, nền nếp; người anh cả là một tướng quân nối nghiệp cha, có tài thao lược, dụng bình giỏi, một người nhân nghĩa có chí khí. Trong chiến dịch đi theo anh vợ đánh giặc “Gió sóng” (tức là giặc theo gió, theo sóng trên biển vào cướp phá miền duyên hải phía nam năm 1043), Trí Cao học đuợc phép bầy binh bố trận và lấy uy, lấy đức thu phục nhân tâm.

Khi Trí Cao ở Thăng Long, mẹ là A Nùng ở quê hương Quảng Nguyên đã dạm hỏi cô Đoạn Hồng Ngọc đang tuổi dậy thì là hoa khôi xinh đẹp, con nhà gia thế ở làng bên thuộc động Xuân Phách (nay là Bản Ngần, xã Vĩnh Quang ), sau một năm làm lễ cưới chú rể vắng mặt. Trí Cao không yêu, chỉ coi Đoạn Hồng Ngọc như bạn quen biết gần làng, song mẹ chàng coi là con dâu chính. Nàng Cầm theo chồng về quê Quảng Nguyên. Trong 10 năm (1043- 1053), nàng sinh được hai con trai là Nùng Kế Tông và Nùng Kế Phong.

Nàng Cầm là sợi dây liên lạc nối kinh đô vua Lý với vùng đất biên cương xa xôi này. Nàng được chồng yêu thương đằm thắm. Song điều này làm cho nàng trở thành cái gai trước mặt mẹ chồng và cô vợ cả Đoạn Hồng Ngọc. Nỗi bất hòa xảy ra thường xuyên và lớn dần. Mẹ chồng hắt hủi, bắt con dâu chứng minh cái thai có đúng là cháu bà không? Bà thường chê bai cách nấu nướng không hợp khẩu vị, không vừa ý với cách cư xử, giao thiệp của nàng Cầm; vợ cả bị chồng lạnh nhạt sinh lòng ghen tuông, nên trong lúc cả giận mất khôn, đã nhẹ dạ chạy sang hàng ngũ địch. Quân Tống tràn sang Quảng Nguyên cướp phá, bắt giết nhân dân, trong đó có cả gia đình Đoạn Hồng Ngọc, Vương Lan Anh bị giết hết. Căm giận quân cướp nước, hận thù nhà, trả thù nhà, Đoạn Hồng Ngọc, Vương Lan Anh lại quay về chống trả giặc Tống, trở thành nữ tướng của Trí Cao. Đoạn Hồng Ngọc biết lỗi lầm nay cải tà quy chính, nên ngày nay tại miếu Linh Ấn tức Đền Kỳ Sầm thờ Kỳ Sầm đại vương Nùng Trí Cao ở Bản Ngần (xã Vĩnh Quang, huyện Hoà An), họ Đoạn ở Xuân Phách vẫn đến tế lễ, sau tuần tế của họ Nùng.

Năm 1052, nhà Tống thấy đất Quảng Nguyên có nhiều khoáng sản quý, sai viên Kinh lược Ung châu là Tôn Tú đem quân xâm lược nước ta. Tháng 4 âm lịch năm 1052, Trí Cao nổi dậy đánh bật quân Tôn Tú ra khỏi bờ cõi, thừa thắng đánh chiếm các châu trên đất Tống. Trước sự tấn công như vũ bão của Trí Cao, vua Tống Nhân Tôn lo sợ, cử năm hổ tướng đứng đầu là nguyên soái Tống Địch Thanh đánh bật quân Trí Cao. Trận quyết chiến đẫm máu ở Tổng Quỷ (cánh đồng ma giáp biên giới huyện Phục Hoà), Trí Cao bị thương, nhờ có anh vợ (ẩn danh) tiếp ứng, Trí Cao mới thoát chết. Quân giặc rất đông và hung hãn, quân Trí Cao bị thương vong nhiều, song tướng quân ẩn danh vẫn đốc quân xung trận và đã hy sinh anh dũng tại trận. Trong lúc rối loạn, quân sỹ vội vàng vùi qua loa thi thể ông tại Ngườm Pục (là hang vùi trên đường lui quân từ Cách Linh lên xã Chí Thảo, huyện Quảng Uyên) sau khi lập chợ Háng Riềng (chợ Cách Linh) nhân dân xây miếu thờ ông. Thời Nguyễn có sắc phong, ông coi đền được xem sắc phong còn nhớ rõ chữ thờ ông tướng họ Trần, nay gọi là đền Quan Chẻng (Chánh). Trong trận chiến ác liệt ở Tổng Quỷ, nước sông lên to, quân sỹ hai bên chết trôi, nước sông Bắc Vọng đục ngầu pha lẫn máu. Nàng Cầm nhảy xuống sông tham chiến bị địch bắt kéo đi mất, ngày nay nơi đó gọi là Hắt Pắt (ngầm nàng Cầm bị bắt). Trí Cao nhờ con ngựa thiên lý mã Long Cư bơi qua sông gặp mẹ và anh vợ họ Trần mới biết, do chủ trương của mẹ không cho quân miền xuôi tiếp viện. Trí Cao cùng gia quyến lặng lẽ ra đi men theo biên giới Đồng Mu, Bảo Lạc chuyển qua Đại Lý. Sau khi Trí Cao mất, dân chúng tìm thấy ấn Thái Bảo để lại, nên lập miếu thờ ở đỉnh Khau Sầm, về sau miếu rời xuống chân núi cạnh làng Bản Ngần. Triều Lý sắc phong “Kỳ Sầm đại vương”. Thời Nguyễn phong tiếp “Kỳ Sầm biên tái, bảo quốc an dân, phúc thần”. Đền Kỳ Sầm mở hội tế lễ vào ngày mùng 10 tháng Giêng âm lịch. Đền được xếp hạng là Di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia.

Chuyện tình Thái Bảo Nùng Trí Cao nói lên sự liên kết giữa nhà Lý với Nùng Trí Cao, nêu lên công lao Nùng Trí Cao đánh tan quân xâm lược nhà Tống bảo vệ bờ cõi phía bắc của Tổ quốc, mà dấu ấn còn ghi đậm nét trong tâm tư, tình cảm của nhân dân các dân tộc Cao Bằng. Nhân dân Cao Bằng tự hào có vị Thái Bảo Nùng Trí Cao với chuyện tình đoàn kết giữa người miền xuôi, miền ngược.

Năm Tân Tỵ, vua Lý Thái Tông cử một tướng ẩn danh lên thuyết phục Nùng Trí Cao không theo nhà Tống. Ngài được người Tày ở vùng đất Quảng Nguyên, tức Cao Bằng ngày nay suy tôn làm thủ lĩnh. Sau này, ông còn được nhà Lý phong làm Thái Bảo tướng quân và giao trọng trách trấn giữ, bảo vệ bình an cho vùng đất biên cương Cao Bằng.

Trong cuộc đời chinh chiến của mình, vị tướng quân này đã lập nhiều chiến công hiển hách, lãnh đạo quân và dân Quảng Nguyên chống lại nhiều cuộc tấn công quy mô của giặc Tống.

Trong cuộc kháng chiến chống Tống lần 2 của quân và dân Đại Việt, thủ lĩnh Nùng Trí Cao đã phối hợp ăn ý với quân đội triều đình cùng tấn công đánh phủ đầu kho lương thảo của giặc ở Ung Châu, Khâm Châu, Liêm Châu thuộc đất lưỡng Quảng, sau đó rút về chỉ huy quân và dân Cao Bằng lập phòng tuyến chống giặc ngoại xâm. Khi giặc Tống xâm phạm bờ cõi Đại Việt vào năm 1075, Ông Hoàng Bát Nùng đã anh dũng lãnh đạo quân dân địa phương chiến đầu ngăn bước tiến của địch, tạo thêm thời gian cho quân đội triều đình xây dựng phòng tuyến trên sông Như Nguyệt. Ông nhiều lần bị thương nặng nhưng cũng lập được nhiều chiến công vang dội, góp phần không nhỏ cùng quân và dân Đại Việt làm nên chiến thắng hiển hách vào mùa xuân năm 1077. Để tưởng nhớ công lao to lớn đó của ông, sau khi ông mất, người dân trong vùng đã lập đền thờ ông và suy tôn ông là Quan Hoàng.

Theo “Đại Việt sử kí toàn thư”, Nùng Trí Cao là con của ông Nùng Tôn Phúc – Thủ lĩnh châu Thảng Do.

Năm 1038, Nùng Tôn Phúc chiếm châu Vũ Lặc và Quảng Xương, xưng ” Chiêu Thánh hoàng đế”, lập nước Trường Sinh, phong vợ làm Minh Đức hoàng hậu, phong con cả Trí Thông làm Điền Nha Vương, đồng thời sắm sửa vũ khí, xây dựng thành trì.

Năm 1039, vua Lý Thái Tông thân chinh đem quân đánh Nùng Tôn Phúc, bắt ông và con trai cả về kinh xử tử. Nùng Chí Cao cùng mẹ chạy đến động Lôi Hỏa, phía Tây Bắc Cao Bằng thuộc địa phận tỉnh Quảng Tây Trung Quốc.

Năm 1041, hai mẹ con ông từ động Lôi Hỏa về chiếm Thảng Do, chiêu tập lực lượng, lập nước ĐẠI LỊCH. Triều đình nhà Lý mang quân lên đánh, bắt Nùng Trí Cao về kinh đô nhưng không trị tội mà còn cho ông coi giữ châu Thảng Do, đồng thời cai quản thêm các động Lôi Hỏa, Bình An, châu Tư Lang và được phong làm châu mục Quảng Nguyên.

Năm 1043, vua Lý Thái Tông sai Ngụy Trưng đến châu Quảng Nguyên, phong cho ông tước Thái Bảo, một chức quan cao cấp thời Lý.

Năm 1048, Nùng Trí Cao nổi dậy ở đông Vật Ác (thuộc đất Tống).

Năm 1050, Ông chiếm được động Vật Dương (thuộc đất Tống), lập nước NAM THIÊN, đặt hiệu Cảnh Thụy.

Năm 1052, sau khi dâng biểu xin cống vua Tống không được, ông đã dẫn 5000 quân tiến đánh Ung Châu, sau đó xưng NHÂN HẬU HOÀNG ĐẾ, đổi niên hiệu là KHẢI LỊCH, đặt quốc hiệu ĐẠI NAM.

Năm 1053, Địch Thanh viên tướng nhà Tống, dẫn quân đánh Nùng Trí Cao, nhà Lý sai Vũ Nhị tiếp ứng, nhưng do tình thế không cứu vãn nổi nên cuộc nổi dậy của Nùng Trí Cao chấm dứt.

Đền thờ Quan Hoàng Bát

Thái Bảo Nùng Chí Cao là một biểu tượng dũng tướng của Việt nam và là niềm tự hào của người dân Cao Bằng. Ngài là một nhân vật lịch sử ở Cao Bằng đã có một thời oanh liệt, đánh tan giặc Tống xâm lược nước ta, được lưu danh trong nhân dân, trong sử sách; nhân dân tôn sùng lập đền thờ ở nhiều nơi trong tỉnh. Đền thờ chính thờ ngài là Đền Kỳ Sầm gần thị xã Cao Bằng. Tiệc chính là 10/1 âm lịch hàng năm. Đền Kỳ Sầm tọa lạc trên một quả đồi thấp, sát chân núi Khau Sầm thuộc thôn Bản Ngần, xã Vĩnh Quang (Thành phố). Ngài hầu Mẫu Thượng Đồng Đẳng, làm việc lục bộ nội chính.

Đền được xây dựng trên một khuôn viên rộng, kiến trúc hình chữ “nhị”, mang dáng dấp phong cách kiến trúc thời nhà Nguyễn, có nhà bái đường và hậu cung. Tại nhà bái đường có một ban thờ. Phía trong hậu cung có ba ban thờ, chính giữa thờ Nùng Trí Cao, bên trái thờ mẹ A Nùng, bên phải thờ ba người vợ: Vương Lan Anh, Đoàn Hồng Ngọc, Trần Thị Cẩm. Quá trình gây dựng ngôi đền, với lòng ngưỡng mộ vị dũng tướng, nhân dân đã cung tiến một số đồ thờ quý, như đôi hạc bằng đồng, một số lư hương, chuông đồng…, trong khuôn viên được quy hoạch trồng nhiều cây cảnh bên cạnh các cây đa cổ thụ xum xuê, làm cho ngôi đền thêm trầm mặc, linh thiêng.

Den tho Ong Hoang Bat

Su tich Ong Hoang Bat

Ngày khánh tiệc Quan Hoàng Bát

Chính tiệc là ngày mùng 10 tháng Giêng hàng năm.

Hầu giá Quan Hoàng Bát Nùng

Quan Hoàng Bát Nùng là một trong các thánh hoàng rất ít khi về ngự đồng. Chỉ những người mang căn lục bộ mới có thể hầu Ngài. Khi về ngự đồng, ngài thường mặc y phục màu vàng, khăn mỏ rìu, mặc áo trấn thủ, đi ghệt chân ghệt tay, mạng chéo, làm lễ tấu hương, khai quang, múa đôi trùy đồng (múa cờ, kiếm) và múa võ. Khi ngự đồng ông cũng hút tẩu và thuốc cuốn.

Đền chính của ông là Đền Kỳ Sầm ngay gần thị xã Cao Bằng, các bản hội lên đất này rất hay hầu giá ông để cầu công danh, ban tài tiếp lộc. Khi về đồng ông mặc áo chàm đen, làm lễ tấu hương, khai quang, múa cờ – kiếm rồi múa võ mèo …

Bản văn Quan Hoàng Bát

Gương anh dũng ngàn xưa lưu để

Đất Cao Bằng tú khí chung linh

Trời nam có đức thánh linh

Họ Nùng đệ bát hùng anh tuyệt vời

Giận bạo chúa bao đời áp bức

Thù ngoại xâm Tống giặc cường hung

Thề rằng không độ trời chung,

Tuốt gươm quét sạch thù trong giặc ngoài.

Dù trăm trận mưa rơi sấm giật

Đôi trượng đồng dạy đất trời long

Bát Nùng nối nghiệp gia phong

Noi gương tiên tổ – họ Nùng – Trí Cao.

Ông Bát Nùng ra vào sinh tử

Trượng tung bay tuyết phủ hoa khai

Sá gì đạn lạc tên rơi

Trên đời hồ dễ mấy ai anh hào.

Thân bách chiến ra vào sinh tử

Đôi thần trùy nhẹ tựa hồng mao

Trần hoàn nhẹ gánh gian lao

Cõi trời do sổ Thiên Tào có tên.

Rước ông Bát về miền tiên giới

Đất Cao Bằng nhớ lại công ơn

Nhân dân thờ phụng khói hương

Nhớ người tráng sĩ hiên ngang anh hùng.

Thưở niên thiếu kiếm cung yên ngựa

Sinh vì đời, thác trợ muôn dân

Oai linh lẫm liệt thánh thần

Một lòng vì nước vì dân vì đời.

Gương anh khí sáng ngời muôn thuở

Trí hào hùng rạng rỡ non sông

Vinh quang thay giòng giống Lạc Hồng

Ngàn thu còn nhớ ông Bát Nùng Trí Cao

Thơ Lý Bạch anh hào ví sánh

Rượu Lưu Linh buồn tính vui say

Thừa nhàn bạch định thiên khai

Cờ thiên đế thích mộ tài tri âm

Kèn sáo trúc bổng trầm họ Lá

Lục huyền cầm Tử Bá nam xuân

Liên tâm ba chén tẩy trần

Thanh hương bình ngọc kỳ trân đượm mùi

Hồn quốc túy ấm lòng quân tử

Thú yên hà duyên nợ núi sông

Ngàn xưa tuyết nguyệt hoa phong

Thuốc lào Tiên Lãng ấm lòng thế gian

Khói thoảng ngát hương lan thú thảo

Thú phong lưu Vĩnh Bảo – Hải Đông

Sập vàng điếu ống thung dung

Ngự về trần thế đèn lồng kiệu hoa

Ai thành kính tại gia phụng sự

Thỉnh Ông về giá ngự đền trung

Xưa nay tắc tự hữu công

Dâng văn kính thỉnh Ông Bát Nùng Trí Cao.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *