CHẦU MƯỜI ĐỒNG MỎ

Chầu Mười Đồng Mỏ (Nhạc Phủ) – Danh hiệu: Nữ Tướng Đồng Mỏ Chi Lăng – Màu sắc đại diện: màu vàng.

Four Palaces - Tứ Phủ Thần Tích Chầu Mười Đồng Mỏ

Chầu Mười Đồng Mỏ là vị thánh chầu trong hàng Tứ Phủ Thánh Chầu. Chầu Mười Đồng Mỏ là vị nữ tướng anh linh hiển hách nhất vùng Lạng Sơn. Tên gọi Đồng Mỏ được lấy từ địa danh nơi chầu đã lập được nhiều chiến công hiển hách trong công chiến đấu trấn giữ bảo vệ bờ cõi trước quân xâm lược nhà Minh.

“Ai lên Đồng Mỏ Chi Lăng
Nhớ người nữ kiệt cứu dân tiền triều
Nước non gặp vận hiểm nghèo
Chầu Mười Đồng Mỏ sớm chiều xông pha”

Vốn người sinh quán Mỏ Ba
Cần lao nối dõi việc nhà đao cung
Gặp thời Thái Tổ Trung Hưng
Giúp vua dẹp giặc Liễu Thăng hàng đầu”

Thần tích Chầu Mười Đồng Mỏ

Có nhiều sự tích kể về Chầu Mười Đồng Mỏ khắp vùng Lạng Sơn, tuy nhiên hai sự tích dưới đây thường được phần đông nhân dân trong vùng truyền tụng:

Sự tích Chầu Mười Đồng Mỏ là con gái tù trưởng ở đất Đồng Mỏ

Sinh thời Chầu giỏi võ và kiếm cung, khi vua Lê Thái Tổ hiệu triệu toàn dân đánh giặc, chầu đã chiêu binh ra sức giúp triều đình. Sau khi giặc tan triều đình phong công, trấn giữ vùng Mỏ Ba, lúc thanh bình chầu lại giúp dân lập ấp tế trợ cứu bần. Đến mùa thu Chầu mãn hạn về tiên. Triều đình phong tặng anh hùng liệt nữ, tiếng Chầu anh linh biến hiện khắp Bắc Trung Nam xa gần nô nức trảy hội Mỏ ba. Chầu được Mẫu sắc phong Khâm Sai tứ phủ là một trong những vị Chầu tối linh được nhân dân và con nhang đệ tử  loan giá phụng thờ.

Sự tích Chầu Mười Đồng Mỏ dưới thời Lê Thái Tổ Trung Hưng khởi binh chống giặc

Theo tích này thì Chầu Mười vốn là người Tày, dưới thời vua Lê Thái Tổ Trung Hưng khởi binh chống giặc. Chầu sinh quán trong một gia đình có truyền thống đao cung võ nghệ bao đời trên đất Mỏ Ba (nay là Đồng Mỏ), Chi Lăng, Lạng Sơn. Lớn lên chầu lẫm liệt oai phong trở thành vị nữ tướng tài ba, tập hợp dân các dân tộc ở đất Đồng Mỏ, giúp vua Lê đánh đuổi giặc Minh mưu đồ xâm lấn nước Nam ta. “Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu. Hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó”, nàng chiêu mộ binh sĩ, rèn đúc giáo gươm quyết phò Lê Lợi diệt giặc cứu khổ muôn dân. Vua rất tin tưởng, giao cho chầu trấn giữ các châu, nơi cửa ải Chi Lăng.  Năm ấy trận Chi Lăng, Xương Giang trăm bề gian khó nhưng vị nữ nhi vẫn xả thân chiến trường, một đao một ngựa giao chiến chầu lập công chém đầu Liễu Thăng. Kháng chiến thắng lợi, chầu được vua phong công, giao cho cai quản vùng Mỏ Ba, Đồng Mỏ, trấn giữ ải Chi Lăng. Tại vùng Mỏ Ba, ba giúp dân lập xóm ấp làng bản, dạy dân làm ăn, được già trẻ xa gần ai ai cũng mến phục. Đến cuối mùa thu thì chầu về tiên.

Đền thờ Chầu Mười Đồng Mỏ

Đền Chầu Mười Đồng Mỏ được lập ngay sát cửa ải Chi Lăng, nơi chầu trấn giữ năm xưa, chính thờ là Đền Chầu Mười Đồng Mỏ hay Mỏ Ba Linh Từ – ngôi đền nổi tiếng xứ Lạng thờ phụng Chầu Mười thuộc xã Mỏ Ba, thị trấn Đồng Mỏ, Chi Lăng, Lạng Sơn.

Chầu Mười Đồng Mỏ

Ngày khánh tiệc Chầu Mười Đồng Mỏ

Hàng năm vào ngày 1 tháng 10 âm lịch, du khách xa gần đã bắt đầu hành hương về Đền Mỏ Ba nhân tháng tiệc chầu Mười Đồng Mỏ. Tuy nhiên để trả lời cho câu trả lời chính tiệc chầu Mười là ngày nào thì còn nhiều ý kiến khác nhau.

Theo huyền tích Chi Lăng, Xương Giang thì ngày tiệc của Chầu là vào 20/9. Còn theo một số tài liệu khác như sử nhà Lê thì ngày tiệc của Chầu là ngày 20/10, có nơi là 10/11.

Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, ở đây có ghi lại trận chiến Chi Lăng vào ngày 20/9, cũng trùng khớp với trận đánh mà Chầu hi sinh, và cũng trùng với thời điểm cuối thu trong bản văn Chầu Mười đã viết: “Cuối thu mãn hạn về tiên – Nhân dân kỷ niệm lập đền Mỏ Ba”, như vậy thì ngày tiệc chính của Chầu Mười vào ngày 20/9 có thể cho là hợp lý nhất.

Su tich Chau Muoi

Hầu giá Chầu Mười Đồng Mỏ

Chầu Mười thường hay loan giá ngự đồng trong các dịp tiệc vui hoặc tại các cửa đền ở đất Lạng Sơn. Khi ngự đồng, chầu thường mặc áo vàng, đầu đội khăn vàng cuốn chữ nhân, ra tay dấu 10 ngón, lưng đeo cờ lệnh. Sau lễ khai quang dân hương, chầu một tay múa kiếm, tay kia múa cờ lệnh như là khi chầu xông pha nơi trận mạc.

Khi chầu ngự đồng, văn thường hát rằng:

“Ai lên Đồng Mỏ Chi Lăng
Nhớ người nữ kiệt cứu dân tiền triều
Nước non gặp vận hiểm nghèo
Chầu Mười Đồng Mỏ sớm chiều xông pha
Vốn dòng sinh quán Mỏ Ba
Cần lao nối dõi việc nhà đao cung
Gặp thời Thái Tổ Trung Hưng
Theo vua dẹp giặc Liễu Thăng hàng đầu”

Hay khi nói về cảnh chầu xông pha nơi chiến trận:

“Canh ba giờ Tí hiện ra
Áo vàng phấp phới khăn hoa dịu dàng
Vua ban kiếm bạc cờ vàng
Cưỡi trên mình ngựa hiên ngang oai hùng
Đêm thanh bẻ lái giữa dòng…”

Bản văn Chầu Mười Đồng Mỏ

Ai lên Đồng Mỏ Chi Lăng
Nhớ người nữ kiệt cứu dân tiền triều
Nước non gặp vận hiểm nghèo
Chầu Mười Đồng Mỏ sớm chiều xông pha
Vốn người sinh quán Mỏ Ba
Cần lao nối dõi việc nhà đao cung
Gặp thời Thái Tổ Trung Hưng
Giúp vua dẹp giặc Liễu Thăng hàng đầu
Vua sai Chầu trấn các châu
Khắp vùng xứ Lạng địa đầu giang san
Giặc Minh quen thói bạo tàn
Mưu đồ xâm chiếm biên cương địa đầu
Lệnh truyền hiệu triệu các châu
Sơn trang tám tướng nghe chầu ra binh
Mười đông chiến lược tung hoành
Dẹp tan giặc dữ triều đình phong công
Rước Chầu trở lại sơn trung
Giúp dân lập ấp lên vùng Mỏ Ba
Đức tài đã dậy gần xa
Bản mường cao lũng trẻ già đội ơn
Cuối thu mạn hạn về tiên
Nhân dân kỉ niệm lập Đền Mỏ Ba
Người gần cho chí người xa
Rủ nhau trảy hội mỏ ba sớm chiều
Đường lên khuất khúc cheo leo
Chênh vênh núi đá tai mèo nhấp nhô
Mỏ Ba phong thủy họa đồ
Suối trong uốn lượn đền thờ trang nghiêm
Long xà hổ phục chim muông
Vượn dâng trái chín ngát hương hồng đào
Nghe chim gõ mõ sớm chiều
Phượng hoàng tung cánh mĩ miều họa ca
Canh ba giờ tí hiện ra
Áo vàng phấp phới khăn hoa dịu dàng
Lưng đeo kiếm bạc cung vàng
Cưỡi trên mình ngựa hiên ngang oai hùng
Đêm thanh bẻ lái giữa dòng
Lạng Giang ,Bản Kí ,Kì Cùng Lạng Sơn
Dừng thuyền bái yết chùa tiên
Thoát thôi Chầu trở về miền Tam Thanh
Dạo chơi Bắc Địa Long Thành
Sông Hương , núi Ngự như tranh họa đồ
Tháp chùa Thiên Mụ nhấp nhô
Sài Gòn , Gia Định chơi chùa Vĩnh Nghiêm
Bạch Đằng bến Nghé Thủ Thiêm
Chơi thôi chầu lại về miền Cốc Giang
Lăng Ông cổ tích danh lam
Khi chơi Đà Lạt lúc sang Vũng Tàu
Khắp hòa Tam thập lục châu
Kon Tum Đắc Lắc một bầu sơn trung
Rừng già Chầu đã từng sang
Rừng Buôn Mê Thuột tiên nàng đón đưa
Chôm chôm soài cát rừng dừa
Trăm hoa ngàn quả tiễn đưa chân người
Bắc Nam trung một bầu trời
Dâng hương khấn nguyện Chầu Mười giáng lâm
Chữ rằng sở nguyện tòng tâm
Tấm lòng đệ tử nhất tâm một đời
Hôm nay văn hát mấy lời
Vun trồng công đức ngàn năm vững bền.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *