ĐỨC VUA CHA THOẢI PHỦ

Đức Vua Cha Thủy Phủ Bát Hải Long Vương (Thoải Phủ) – Danh hiệu: Vua Cha Bát Hải Động Đình – Màu sắc đại diện: màu trắng.

https://tinnguongviet.com/wp-content/uploads/2023/05/Vua-Cha-Bat-Hai-Dong-Dinh.jpg

Đức  Vua Cha Bát Hải còn được gọi là Vua Cha Bát Hải Động Đình, là vị vua đứng đầu Thủy phủ, hành dinh của Ngài ở Động Đình Hồ một vùng đất ven biển Đông của nước ta. Theo truyền thuyết lưu truyền thì ngài là cha của Thánh Mẫu Xích Lân Long Nữ, là nhạc phụ của Kinh Dương Vương (Kinh Xuyên), thủy tổ của Bách Việt. Trong hệ thống thần linh Tứ phủ, Đức Vua Cha Bát Hải Động Đình là vị đứng hàng trên Tam tòa Thánh Mẫu.

“Nhang thành kính đôi lời giãi tỏ
Trước điện tiền lễ độ phục uy
Thoải đình Thánh Đế uy nghi
Quyền cai chính ngự ngọc trì bể Đông
Truyền thừa mệnh Long Cung Bát Hải
Thái Ninh từ chính đại quang minh
Ấy nơi tụ khí chung linh
Quyền cai thống lĩnh chư dinh thoải tề
Các cửa bể cửa sông Nam quốc
Một mối thông sau trước một nơi
Quy về long mạch chính ngôi
Đền Vua Bát Hải ở nơi Động Đình”

Thần tích Đức Vua Cha Bát Hải

Vào thời Hùng Vương 18, Đất nước Văn Lang – Lạc Việt là giữa buổi thịnh trị, Vua sáng tôi hiền, dân miền duyên hải còn rất thưa thớt, làm nghề chài lưới và nông tang. Ngày ấy, Sông Vĩnh cổ (tức sông Đồng Bằng, thuộc xã An Lễ bảy giờ) còn rất rộng, tương truyền lại còn có cả các loài thuỷ quái, thuồng luồng, giao long sinh sống. Dân đất Hoa Đào trang (vùng An Lễ bây giờ) cư trú dọc bên sông, nghề chính là trồng dâu nuôi tằm, dệt vải và khai khẩn bãi bồi, canh tác nông nghiệp, kết hợp chài lưới đánh bắt tôm cá trên sông.

Khi Hùng Duệ Vương đã lên tuổi Kỳ lão (tức tuổi 60) mà vẫn chưa có con trai nối dõi. Vua chỉ có hai Công chúa: Công chúa lớn là Tiên Dung, trời se duyên cùng Chử Đồng Tử, rồi cùng tu tiên biệt tích không về; Công chúa em là Mỵ Nương, lấy Tản viên Sơn Thánh. Vua đã vài lần gợi ý trao Vương miện cho Sơn Thánh, nhưng Sơn Thánh quyết không nhận. Gặp những kỳ đất nước hữu sự, ngài về Triều giúp Vua Cha, yên sự lại về Tản viên tu đạo, chứ không màng quan tước. Chính vì thế, có nhiều thế lực nhóm ngỏ Ngai Vàng còn chưa có người kế vị. Các nước láng giềng ở Bắc phương, cùng lân bang Vạn Tượng, Ai Lao,… cùng nung nấu ý đồ thôn tính Văn Lang – Lạc Việt.

Ngày ấy, có hai vợ chồng (ông Phạm Túc, bà Trần Thị – Sử cổ ghi rõ) là người Trang An Cố (thuộc Thụy Anh – Thái Bình ngày nay) đã lớn tuổi, sống phúc hậu mà không có con. Một lần, họ ngược dòng đánh cá đến Trang Hoa Đào (đất An Lễ, nơi toạ lạc Đền Đức Vua bây giờ) và tình cờ gặp cô gái nhỏ bên sông Vĩnh, ông bà đón cô gái về nuôi tại An Cố, đặt tên là Quý Nương. Mấy năm sau, khi tròn 18 tuổi, Quý Nương rất xinh đẹp, đoan trang, nhưng không nhận lời cầu hôn của ai cả. Ông bà Phạm Túc bị bệnh rồi lần lượt qua đời. Quý Nương lưu lại An Cố để hương khói báo hiếu cho bố mẹ nuôi.

Một lần Quý Nương ra cửa sông tắm, đang trời yên biển lặng, bỗng sóng gió nổi lên dữ dội, rồi thấp thoảng bóng một con Hoàng Long hiện lên quấn chặt lấy nàng. Một lát sau, khi sóng gió qua đi, Quý Nương thấy mình nằm trên bãi sông. Một thời gian sau, bỗng thấy mình có thai, Quý Nương rời An Cố trở về quê Hoa Đào trang sinh sống. Bà có thai đúng 13 tháng, vào đúng đêm ngày mồng 10 tháng giêng bà sinh ra một cái bọc, giữa ánh hào quang phát sáng rực. Quý Nương sợ hãi, ôm bọc thai thả xuống sông Vĩnh. Cũng đêm ấy, có một người cất vó bên sông (sách cổ ghi rõ tên là Nguyễn Minh). Ông thấy cái bọc đã được mình cầm vứt ra nhiều lần mà cứ cố tình trôi vào vó, cực chẳng đã ông đành rạch bọc ra, ánh sáng phát chói loà, ông kinh hãi thấy từ trong bọc chui ra 3 con Hoàng Xà, đầu Rồng mình rắn. Con lớn nhất (chính là Thái Tử Giao Long) vượt sông lên bờ, chui vào náu thân trong một giếng nước (đó chính là giếng thiêng trong Cấm Cung Đền Đồng Bằng bây giờ). Truyền thuyết còn nói rằng: ông kéo vó khi rạch bọc, lưỡi dao đã vô tình làm đứt một thuỷ đuôi của con Hoàng Xà lớn, vì thế xưa kia các bản Hội về cúng mô hình Giao Long tại Đền Đồng Bằng, bao giờ cũng làm một thuỷ đuôi là theo tích này), còn hai Hoàng Xà nhỏ, bơi xuôi theo dòng nước chảy dọc sông Vĩnh, một con giạt vào Thanh Do Trang, con nhỏ nhất bơi đến tận Trang Hoa Giám. Cũng đêm ấy, dân Đào Hoa trang thấy trời nổi sấm rền, rồi từ trên không trung có tiếng nói vang động: “Ta là con của Long Quân, khi có giặc sẽ giúp Vua Hùng diệt giặc”. Hôm sau, dân bản hạt đến bên giếng cạn đắp ụ đất, tạm lấy lá chuối ghi chữ đánh dấu, rồi sau lập thành Miếu thờ, từ đó hương khói cầu “phong đăng hoà cốc” thấy rất linh nghiệm (đôi câu đối chạm hình lá chuối treo trong Cấm cung cũng là từ tích này).

Vua Hùng ngày ấy đã già, lại không con trai nối dõi. Vua thường buồn bã, hay đau yếu làm lo lắng cho trăm quan triều chính. Có nhiều thế lực trong nội bộ Bách Việt, muốn nhòm ngó ngai vàng Lạc Việt như bộ tộc Âu Việt, do Thục Vương cai quản (nguyên gốc xưa là người Trung Nguyên di cư xuống phía nam, từ lâu đã thành dân Bách Việt, và cũng chính là phụ thân của Thục Phán).

Chuyện kể rằng: Khi Mỵ Nương đến tuổi lấy chồng, nhan sắc tuyệt vời, phong tư đoan chính. Thục Vương mê lắm, rất muốn cưới về làm thiếp. Vua Hùng cũng có ý ưng thuận, nhưng các Lạc tướng can rằng: “Thục Vương từ lâu nhòm ngó nước Văn Lang của dân Lạc Việt ta, giờ Vua lại gả Mỵ Nương cho y, khác gì đưa hổ vào tận trong nhà” vì thế Vua Hùng không gả con cho, rồi lại đem gả cho Sơn Tinh. Thục Vương giận lắm, thề dù có phải đến đời con sau này cũng sẽ quyết thôn tính bằng được Lạc Việt.

Khoảng vài năm sau thấy thời cơ đã đến, các nước lân bang như Ai lao, Vạn tượng, Chiêm thành hợp sức cùng quân phương Bắc, nhân Vua Hùng già yếu đã hẹn phối hợp xâm lấn nhằm thôn tính Lạc Việt. Họ được một số bộ lạc trong Bách Việt như Âu Việt, Mân Việt, Nam Việt nội ứng, cùng chính sức “tinh binh bách vạn”, tuyển “phì mã tam thiên”, tức là tập hợp hàng trăm vạn tinh binh, ngựa khoẻ. Quân đường bộ chia làm 5 đạo, hẹn đợi cánh quân đường thuỷ từ phương Bắc xuống, khi nào quân phương Bắc phong toả được 8 cửa biển Lạc Việt, thì cả thuỷ, lục các đạo đều cùng một lúc tiến quân. Thanh thế của giặc chấn động cả biên thuỳ, thư cấp báo đưa tin giặc dữ truyền về Kinh đô “1 ngày đến 5 lượt”. Hùng Duệ Vương rất lo lắng trước thế giặc quá mạnh, liền cho người đi mời Sơn Thánh về Kinh hiến kế phá giặc. Sơn Thánh lập tức từ Tản Viên hồi Triều, Hùng vương ngạc nhiên thấy Sơn Thánh ung dung thư thái. Vương trách: “Một ngày có đến 5 tin hoả tốc cấp báo, thế giặc như lũ bão, chẳng lẽ Khanh không lo sao?”

Sơn Thánh tâu rằng: “Trải qua 17 đời Vua Hùng, những bậc quân vương đều là Thánh hiền, việc nghĩa nhân đã dày và nhuần thấm, thương dân như con, ân tình ghi vào cốt tuỷ, đó là một thế mạnh. Nước Văn Lang – Lạc Việt ta hiện nay đang độ quốc phủ, binh cường, bệ hạ uy đức lan xa đến hải ngoại, thấu đến trời đất, vì thế Trời đã “đa giáng anh tài” xuống làm dân đất Việt, để mà hộ quốc cứu dân đó thôi!”.

Vua Hùng hỏi, Sơn Thánh thưa: “Đó là Long cung Hoàng Thái Tử đã giáng sinh, đang náu ở Hoa Đào Trang, thuộc Sơn Nam Hạ, họ có 3 anh em khí độ vượt nhân, kinh luân đứng đầu kim cổ, văn võ kiêm tài. Trời lại cho giáng trần thêm mấy anh tài hiện đang làm con dân Lạc Việt (ý nói về các Quan lớn của Vĩnh Công), có thể đảm đương việc cự địch xâm lăng đường biển. Nước Việt ta lại còn có “sơn thuỷ bách Thần” từ ngày lập nước rất linh ứng, hay hiển linh để phù trợ. Bởi vậy Bệ hạ chẳng phải quá lo, kẻ địch đẩy binh vô đạo, tất sẽ “thủ bại”. Bệ hạ nên cử Thái Tử Long cung trấn giữ và đánh giặc tại các “giang môn, yếu hải”, còn thần nguyện đích thân tiên phong cự địch tại các cánh đường bộ. Thần đồ rằng chỉ vài hôm là giặc tan”.

Duệ Vương nghe nói cả mừng, lập tức lệnh lập Đàn cầu Trời ứng trợ, tuần hương vừa tàn, thì Thanh Y Tiên Ông lai giáng, mách Vua cho người về Hoa Đào trang mà triệu, sẽ có dị nhân đánh tan giặc biển (trích dịch Văn tự Hán Nôm cổ về Đào Động, hiện lưu giữ tại Viện TT KH-XH Việt Nam). Hùng Vương cả mừng, sai sứ giả về Hoa Đào trang (tức đất An Lễ bây giờ) để truyền chỉ dụ triệu kỳ nhân dẹp giặc.

Khi Sứ giả về hỏi, dân thôn kể về việc Giao Long ẩn thân trong giếng cạn trước đây. Sứ giả đến bên giếng xướng truyền sắc chỉ, thì thấy Hoàng Xà hiện ra rồi bỗng hóa thành một chàng trai lực lưỡng, tuấn tú hơn người. Ngài nhận chỉ dụ, nhờ sứ giả báo với Vua Hùng là sẽ triệu 2 em, tuyển 10 tướng, chiêu mộ binh sĩ trong 10 ngày, rồi xuất quân đánh giặc trên cả 8 cửa biển nước Nam, hứa sau 3 ngày là giặc tan. Từ đó, ngài có tên là Vĩnh Công (trọng nhân phát tích trên sông Vĩnh).

Tương truyền: Ngay ngày tuyển mộ đầu tiên, Vĩnh Công đã chọn được 3 tướng là Quan Lớn Thượng, Quan Đệ Tam và Quan Đệ Tứ. Trai tráng duyên hải kéo đến đầu quân rất đông, nhưng đến trưa ngày thứ 10 theo hẹn, vẫn thiếu một tướng. Vĩnh Công lập đàn cầu, trời điều Tam Thái Tử xuống đầu quân, ngài giáng xuống Bảo Hà (Lào Cai), tương truyền thấy một tiếng sét dữ dội tại đó, rồi một luồng hào quang bay về nơi Vĩnh Công tuyển tướng, tụ thành một chàng trai tuấn tú xin ứng tuyển, đó chính là Quan Điều Thất. Sau khi chọn được quan Điều Thất, đủ số 10 tướng, Vĩnh Công còn chọn được một mưu sĩ tài ba, quê ở Nuồi (Tứ Kỳ – Hải Dương) làm Quân Sư. Xếp dưới 10 vị Đại Tướng và một vị Quân Sư, Vĩnh Công còn lựa được 28 vị Nội Tướng tài ba (xếp đủ theo Nhị Thập Bát Tú). Để thể hiện tình nghĩa ruột thịt cùng xả thân vì xã tắc, không câu nệ danh vọng, Vĩnh Công tùy theo tuổi mà phân thứ bậc các tướng.

Trên hai mũi tấn công chủ yếu bằng đường thuỷ của giặc phương Bắc là cửa sông Cái (sông Hồng) và cửa sông Bạch Đằng. Vĩnh Công cùng Quan Lớn Thượng chặn giặc ở cửa sông Cái, Quan Lớn Đệ Tam cùng Quân Sư Nuồi và Quan Lớn Đệ Ngũ chặn giặc tại cửa sông Bạch Đằng, Quan Điều Thất phụ trách ứng chiến và phối hợp tác chiến cùng các cánh quân chặn giặc đường bộ của Tản Viên Sơn Thánh, các vị Quan Lớn khác đều được phân công đánh giặc trên 6 cửa biển khác của Nước Nam. Đúng hẹn 3 ngày, Vĩnh Công cùng tướng sĩ đánh tan giặc dữ trên cả 8 cửa biển. Thấy cánh quân đường thuỷ hùng mạnh của phương Bắc bị đại bại, nhiều cánh quân xâm lược đường bộ do các bộ lạc của Bách Việt, được sự giúp sức của các nước Ai Lao, Vạn Tượng… đang cố quyết chiến cùng quân Lạc Việt do Tản Viên Sơn Thánh chỉ huy, nghe tin đều hoảng sợ, vội vã rút nhanh về nước.

Đất nước trở lại thanh bình, Hùng Duệ Vương triệu Vĩnh Công về Triều, phong là “Vĩnh Công Nhạc Phủ Thượng Đẳng Thần”, lại có ý muốn lưu ở kinh đô giúp việc triều chính. Vĩnh Công xin được về quê để trông nom thân mẫu, khai khẩn vùng duyên hải, chiêu dân lập ấp, dạy dân nghề nông tang (tang: trồng dâu nuôi tằm, dệt vải), đồng thời giúp Vua Hùng giữ yên 8 cửa biển Lạc Việt. Mười tướng theo Vĩnh Công về Hoa Đào Trang.

Quan Điều Thất về Trời ngay sau khi thắng giặc, Vĩnh Công thương xót cho lập ban thờ ngay tại dinh Công đồng, là nơi Vĩnh Công cùng chư tướng tề tựu bàn việc (đó chính là Đền thờ Quan Điều Thất ngày nay, thường gọi là Đền Công Đồng).

Quan Lớn Đệ Tam được phân công giữ yên vùng duyên hải từ sông Cái lên hết biên giới biển phía bắc Lạc Việt (từ tích Quan Lớn Đệ Tam thắng giặc trên cửa sông Bạch Đằng, rồi lại tỵ nhậm cai quản vùng này nên các đời sau, khi đánh giặc trên sông Bạch Đằng, các quân vương đều về cầu và tạ tại Đền Đức Vua Cha và Đền Quan Lớn Đệ Tam, vì cho rằng được âm phù mà chiến thắng).

Quan Lớn Đệ Thập được tỵ nhậm tại Cửu Chân, Quan Đệ Tứ được phân công khai khẩn vùng bãi bắc Sơn Nam. Có 5 vị Nội tướng được Vĩnh Công giao sở nhiệm khai khẩn chăm dân lập Ấp tại Hoa Đào trang (sau chính là 5 vị Thành Hoàng nổi tiếng linh ứng, đã có công âm phù Trưng Vương đánh thắng quân Tô Định tại Sơn Nam hạ).

Vĩnh Công lấy 10 hốt vàng được Vua Hùng ban thưởng để chia cho dân bản hạt làm vốn canh tác. Miền duyên hải Lạc Việt từ đó dân cư ngày càng đông đúc, phồn thịnh. Vua Hùng trao Vĩnh Công quản lý miền duyên hải Lạc Việt, lấy tên là Tây Đô.

Tương truyền: định kỳ hàng năm, nhân ngày đại thắng quân phương Bắc trên 8 cửa biển, Vĩnh Công triệu chư tướng về tề tựu tại Hoa Đào trang (đất An Lễ bây giờ, theo ghi chép của các cụ thì ngày ấy gọi là Hoa Đào trang, một trong các trang ở vùng bãi sông Vĩnh, trấn Sơn Nam hạ, bộ Thang Truyền, quận Giao Chỉ, thuộc châu Giao Chỉ trong Bách Việt, phía tây nam nước Hoa Hạ của nhà Hán). Trong những kỳ hội tụ này, Vĩnh Công mở tiệc khao thưởng, cùng chư tướng đàm đạo về tình hình, vạch kế sách khai khẩn, chăm dân và giữ yên miền duyên hải theo uỷ thác của Vua Hùng. Trong những ngày vui này, Vĩnh Công thường tổ chức thi bơi thuyền, giữa đội thuyền bản hạt và thuyền của các Tướng, thuyền của Quân Sư Nuồi, để ôn lại chiến thắng, tập dượt phòng thủ và luyện quân sẵn sàng ứng phó mọi biến cố. Đường đua thuyền là một đoạn sông Vĩnh “thượng Đồng Đống, hạ Cống Đôi”, lệ thi bơi trải có từ đó và còn tồn tại mãi đến sau này. Trong những ngày kỷ niệm chiến thắng, ngài còn tổ chức thi vật, thi võ cùng với các trò chơi dân gian khác (xới vật kề cạnh một cây cầu, nên cầu này có tên là cầu Vật, tên cầu Vật vẫn dùng cho đến bây giờ).

Công đức của Vĩnh Công rất lớn, vua Hùng rất nể trọng. Dân Hoa Đào trang cũng như cả vùng duyên hải coi ngài ân tình như cha mẹ. Một số năm trôi qua, một hôm Vĩnh Công mời hương lão đến dinh thất của mình (tương truyền là chính đất Đền Đức Vua bây giờ) mà nói rằng: “Ta cùng các vị là dân lân hương ấp, ăn ở với nhau như tình ruột thịt, nay ta sắp phải vâng mệnh về chầu vua cha Lạc Long Quân. Nếu có nhớ đến ta, thì nhà ta đây là miếu sở, ngày ta đi sẽ là ngày giỗ…”. Tất cả hương lão có mặt bùi ngùi, nức nở. Rồi bỗng thấy trời đất tối sầm, sấm chớp gió mưa đột khởi dữ dội. Một thoáng, trời quang mây tạnh, mọi người chỉ còn thấy xiêm áo của Vĩnh Công, đó là ngày 25 tháng 8 âm lịch năm Bính Dần. Dân bản hạt lập tức dâng biểu về Kinh, Vua Hùng thương xót, ban phong mỹ hiệu: “Trấn Tây An Tam Kỳ Linh Ứng Đại Vương”, cấp tiền tang lễ, cho tu sửa dinh thất của Vĩnh Công thành miếu điện thờ tự, cho lập “điền tự” để hương hoả cho Vĩnh Công mãi mãi. Vua Hùng trao cho các tướng của Vĩnh Công tiếp tục sự nghiệp tại miền duyên hải Lạc Việt.

Từ đó, nhân ngày giỗ Vĩnh Công, các tướng lại tề tựu tại Hoa Đào trang, dâng hương cho Vĩnh Công và tổ chức các hình thức kỷ niệm ngày đại thắng như trước đây. Lâu dần thành lễ Hội tháng 8 âm lịch mà truyền đến ngày nay. Tương truyền, các tướng của Vĩnh Công đều là những anh hùng cái thế, sinh tử vì Lạc Việt và bảo vệ Vua Hùng cho tới ngày Hùng Duệ Vương tuẫn tiết, nước Văn Lang – Lạc Việt sang trang sử mới, gọi là nước Âu Lạc. Các tướng của Vĩnh Công sau đó, người hóa thần, người tử trận trong chiến đấu bảo vệ đất nước Văn Lang, họ đều được lập đền thờ, được các triều đại sau sắc phong tôn vinh, kính trọng.

Tại đất Đào Động có Đền thờ Quan Lớn Thượng, Quan Lớn Đệ Nhị, Quan Lớn Đệ Tam, Quan Lớn Điều Thất, Quan Lớn Đệ Bát, tĩnh quan lớn Thượng, tĩnh quan đệ Tứ, đều được tái tạo dựng trên nền cổ tự. Quan Đệ Ngũ thờ tại Đình Giới Phúc, tĩnh Quan Đệ Lục (miếu Giáp Nhị) đã bị thực dân Pháp phá huỷ.

Quan Đệ Tam còn được thờ ở Đền Lảnh Giang (Hưng Yên), Quan Đệ Tứ đền thờ chính ở Vĩnh Bảo – Hải Phòng. Quan Đệ Ngũ có đền thờ ở bến đò Tranh – Hải Dương, Quan Điều Thất có Đền ở Bảo Hà – Lào Cai. Quan Đệ Cửu xưa có Đền ở Thanh Hóa, Quan Đệ Thập có đền ở Nghệ An. Đền thờ Vĩnh Công Đại Vương Bát Hải Động Đình từ xa xưa đã nổi tiếng linh ứng.

Các triều đại sau này như Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hậu Lê, Nguyễn đều tái sắc phong cho ngài. Vĩnh Công được coi là Thượng Đẳng Thần của đất Lạc Việt. Hội tháng 8 âm lịch tại Đền, hội tụ muôn phương dân Việt về chiêm bái lễ cầu. Câu thành ngữ dân gian: Tháng 8 giỗ Cha, tháng 3 giỗ Mẹ chính là để chỉ Hội tháng 8 ở Đền Đồng Bằng và Hội tháng 3 ở Đền Mẫu Phủ Dày. Đền Đồng Bằng là nơi “đi trình về tạ” của các bản Hội tín ngưỡng trong toàn quốc từ xa xưa.

Một số sắc phong cho Đức Vua Cha Bát Hải

Hoàng Triều Vĩnh Hựu nhị niên, trọng Đông nguyệt, sơ nhật

Sắc: Gia phong: Trấn Tây An Tam Kỳ Linh Ứng Đại Vương Thượng Đẳng Quốc Tế

Phóng chi ban hồi dữ cấp tiền tử bách quản. Hứa Đào Động trang ngưỡng Thần hiệu, cập hồi trùng tu miếu điện, dĩ phụng chi lưu truyền hương hoả, dữ quốc tế vĩnh thời huấn công hỹ.

Dịch nghĩa:

Niên hiệu Vĩnh Hựu năm thứ 2 – đời vua Lê Ý Tông – Ngày 01/11 âm năm 1726

Sắc: Gia phong: Được tổ chức tế lễ theo nghi thức dành cho những bậc Thần linh được tôn trọng bậc nhất quốc gia

Truyền Chỉ dụ về tận nơi, cùng số tiền được Triều đình ban cấp là 100 quan. Hẹn cho Đào Động trang tổ chức lễ đón Thần hiệu, tiến hành trùng tu miếu điện thờ phụng và lưu truyền hương hoả, để cả nước về tế lễ huân công của Thần đến mãi mãi

Hàn lâm Viện Đông các Đại học sỹ Nguyễn Binh – Phụng soạn; Bát phẩm Lại bộ – thần Nguyễn Hiền – Phụng sao

Chương Thánh tôn hiệu đệ nhị niên, trọng xuân, cát nhật.

Sơn Nam Hạ trấn, Phụ Phượng quận, Đào Động trang

Cổ điện phụng sự: Tam Kỳ Linh Ứng Vĩnh Công Đại Vương Bát Hải Động Đình.

Thị thượng tôn cổ Thần hộ Quốc Tỳ dân, thập phương ngưỡng vọng

Vạn cổ chí kim thể truyền linh ứng, đa Triều tái phong mỹ tụ Tử kim gia phong

Thượng đẳng Tôn Thần Hộ quốc tí dân, vạn đại linh ứng Chuẩn phụng sự chính lệ

Trợ Thần tồn linh bảo ngã lê dân chi vĩnh.

Khâm thử!

Dịch nghĩa:

Năm Chương Thánh Gia Khánh thứ hai, đời Vua Lý Thánh Tông, ngày tốt, tiết xuân tháng 2 âm lịch, năm 1060

Sơn Nam Hạ trấn, Phụ Phượng quận, Đào Động trang

Cổ điện phụng sự: Tam Kỳ Linh Ứng Vĩnh Công Đại Vương Bát Hải Động Đình.

Là vị Thần từ đời cổ được tôn trọng bậc nhất, đã có công Hộ quốc, che chở cho dân, mà mọi miền đất Việt đều ngưỡng vọng

Từ cổ đến nay, được đời truyền tụng là linh ứng, nhiều Triều đại đã có Sắc gia phong với những lời ca ngợi đẹp đẽ

Nay ban chiếu gia phong là

Vị Thần được tôn trọng bậc nhất, đã có công hộ Quốc, che chở cho dân, vạn năm linh ứng

cho phép phụng sự, tế lễ theo chính lệ

Để Thần tiếp tục linh ứng bảo vệ cho dân ta mãi mãi.

Y lệnh!

Thiên Đức tôn hiệu đệ ngũ niên, trung thu, vọng nhật

Lạc Việt quốc, Hùng Triều đệ thập bát diệp, sắc phong thuỷ Thần phát tích Hoa Đào trang, sơn Nam Hạ trấn.

Sắc phong: Đệ Nhất Lương Thần Vĩnh Công Hộ Quốc Tỉ Dân

Hoả Thần Bính Dần niên, bát nguyệt, nhị thập ngũ nhật, sở tại Hoa Đào trang, Sơn Nam Hạ trấn, bộ Thang Truyền. Niệm đại công sinh thời hùng lược quảng đức phù Quốc an dân. Gia phong: Trấn Tây an Tam kỳ linh ủng đại vương, thượng đẳng quốc tế. Phỏng chỉ ban hồi dữ. Hứa Hoa Đào trang ngưỡng Thần hiệu, trùng tu miếu điện, dĩ cẩn phụng sự chi lưu truyền hương hoa vạn thế, đắc Thần sở tiếp linh ứng phù hộ dân Việt bất hoại.

Khâm dĩ !

Thư lại Lễ bộ Lý triều Chương thánh Gia Khánh nhị niên phụng soạn (15 tháng 8 năm 548). Tú tài Giáo học Đinh Đăng Quát cẩn sao. Cấm cung Bát Hải động Đình linh từ, chinh nguyệt, sơ thập nhật, Quỷ Dậu niên (chép lại ngày mồng 10 tháng giêng năm 1933).

Dịch nghĩa

Năm Thiên Đức thứ hai, đời Vua Lý Nam Đế, Ngày 15 tháng 08 âm năm 548

Thời vua Hùng đời thứ 18, nước Lạc Việt, đã sắc phong cho vị Thuỷ Thần phát tích tại Hoa Đào trang, Trấn Sơn Nam Hạ

Vua Hùng sắc phong là: Vị Thần có đức lớn bậc nhất là Vĩnh Công, đã có công hộ quốc, che chở cho dân ta

Vị thuỷ Thần hoá Thần ngày 25 tháng tám năm Bính Dần, tịch tại Hoa Đào trang, Sơn Nam Hạ trấn, bộ Thang Truyền. Nhớ đến đại công khi sinh thời của Vĩnh Công hùng lược quảng đức, hộ quốc an dân, Vua Hùng gia phong: Trấn Tây an Tam kỳ linh ứng Đại Vương, cho tổ chức tế lễ theo quốc lễ. Vua Hùng phỏng chỉ ban, hẹn cho Hoa Đào trang tổ chức đón rước Thần hiệu, trùng tu miếu điện, phụng sự Thần nghiêm cẩn và lưu truyền hương hoả vạn đời, để Vĩnh Công mãi linh ứng phù hộ cho dân.

Khải Định cửu niên, thất nguyệt, nhị thập ngũ nhật (ngày 25/7/1924)

Sắc! Thái Bình tỉnh, Phụ Dực huyện, Vọng lỗ tổng, Đào Động xã. Phụng sự Trấn tây an nam, tam kỳ linh ứng tôn thần.

Nẫm trử linh ứng, tử kim phi thừa. Cảnh mệnh miễn niệm thần hưu, trử phong vi dực bảo Trung hưng linh phù chi thần, chuẩn kỳ phụng sự, thứ cơ thần kỳ, tương hữu bảo ngã lẽ dân.

Khâm tại!

Đền thờ Đức Vua Cha Bát Hải

Đền Đồng Bằng thờ Vua Cha Bát Hải Động Đình tọa lạc tại thôn Đồng Bằng, xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Đền Đồng Bằng là một bảo tàng mỹ thuật điều khắc gỗ tuyệt đẹp, một điểm du lịch hấp dẫn của vùng quê lúa Thái Bình.

Đền Đồng Bằng còn được gọi là Đền Đức Vua hay Đền Vua Cha Bát Hải Động Đình (xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình), là di tích có giá trị lịch sử văn hóa và kiến trúc nghệ thuật.

Chiêm ngưỡng ngôi đền cổ độc đáo ở Thái Bình - Ảnh 3.

Ngôi đền tọa lạc bên dòng sông Mai Diêm, xưa thuộc trang Đào Động, tổng Vọng Lỗ, huyện Phụ Phượng, nay thuộc thôn Đồng Bằng, xã An Lễ.

Không chỉ mang những giá trị lịch sử đáng trân trọng, đền Đồng Bằng còn là di tích kiến trúc nghệ thuật có giá trị như một bảo tàng mỹ thuật đồ đồng, đồ đá và đồ gỗ với diện tích nội tự là 6.000m2, gồm 13 tòa, 66 gian liên hợp chặt chẽ với nhau tạo thành quần thể ngôi đền với kết cấu theo kiểu “tiền nhị hậu đinh” khép kín, bề thế. Các mảng kiến trúc hài hòa với những nét chạm trổ tinh vi, hàng trăm hoành phi, câu đối, đại tự, cuốn thư sơn son thiếp vàng về các chủ đề tứ linh, tứ quý, các bộ lư hương, án thờ, long ngai và các công trình điêu khắc gỗ tinh xảo, tuyệt mỹ từ thời Khải Định, Bảo Đại vẫn còn được lưu giữ nguyên vẹn.

Theo ngọc phả của di tích, đền là nơi thờ Vua Cha Bát Hải Động Đình – người có công lớn trong việc đánh giặc giữ nước và chiêu dân lập ấp xây dựng giang sơn, xã tắc từ buổi sơ khai.

Ban đầu, đền chỉ là ngôi miếu nhỏ, nằm trong cảnh quan sông nước hữu tình của đất Đa Dực xưa. Đến thời Tiền Lê, đền đã được xây dựng, mở rộng thành 5 cung và 4 ban thờ công đồng khang trang, hoành tráng và được liệt vào “Tứ cố cảnh” thời Lý (Đào Động, Lộng Khê, Tô Đệ, A Sào).

Năm 1986, Đền Đồng Bằng được xếp hạng là di tích Lịch sử Văn hóa cấp Quốc gia, được công nhận là điểm du lịch văn hóa tâm linh của tỉnh Thái Bình năm 2015. Năm 2016, Lễ hội truyền thống Đền Đồng Bằng được đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia.

Từ thế kỷ XIV, Đền còn phối thờ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn cùng các danh tướng nhà Trần đã có công lớn trong 3 lần chiến thắng quân Nguyên Mông và lập nên 8 trang Đào Động xưa.

Đền Đồng Bằng Thái Bình và hành trình 4000 năm lịch sử 2

Cổng đền thiết kế theo kiểu vọng lầu hoành tráng, cổng tam quan cực kỳ nguy nga. Bước qua cổng tới sân chính nội tự, là nơi tổ chức các hoạt động đại lễ, lễ tế quan trọng. Kiến trúc đền theo dạng tiền công hậu đinh, 5 cung thờ chính với các kiểu kiến trúc khác nhau:

– Cung Đệ Tứ chạm khắc tinh xảo, trang trí đầy ắp nhưng bài trí thiết tự.

– Cung Đệ Tam thì thiết kế thanh hư thoát tục hơn, đơn giản và nhẹ nhàng.

– Cung Đệ Nhị xây dựng tươi mới, nhiều màu sắc hút mắt.

– Cung Đệ Nhất với ban thờ đức vua Bát Hải nên rất trang nghiêm, yên tĩnh.

– Cuối cùng là Cấm Cung Đền Đồng Bằng, là nơi linh thiêng nhất, trước kia chỉ vua chúa mới có thể vào đây thờ cúng.

Chiêm ngưỡng ngôi đền cổ độc đáo ở Thái Bình - Ảnh 4.

Chiêm ngưỡng ngôi đền cổ độc đáo ở Thái Bình - Ảnh 11.

Chiêm ngưỡng ngôi đền cổ độc đáo ở Thái Bình - Ảnh 16.

Chiêm ngưỡng ngôi đền cổ độc đáo ở Thái Bình - Ảnh 17.Chiêm ngưỡng ngôi đền cổ độc đáo ở Thái Bình - Ảnh 12.

Chiêm ngưỡng ngôi đền cổ độc đáo ở Thái Bình - Ảnh 25.

Chiêm ngưỡng ngôi đền cổ độc đáo ở Thái Bình - Ảnh 5.

Chiêm ngưỡng ngôi đền cổ độc đáo ở Thái Bình - Ảnh 6.

Chiêm ngưỡng ngôi đền cổ độc đáo ở Thái Bình - Ảnh 10.

Chiêm ngưỡng ngôi đền cổ độc đáo ở Thái Bình - Ảnh 19.

Chiêm ngưỡng ngôi đền cổ độc đáo ở Thái Bình - Ảnh 14.

Chiêm ngưỡng ngôi đền cổ độc đáo ở Thái Bình - Ảnh 15.

Chiêm ngưỡng ngôi đền cổ độc đáo ở Thái Bình - Ảnh 18.

Chiêm ngưỡng ngôi đền cổ độc đáo ở Thái Bình - Ảnh 22.

Chiêm ngưỡng ngôi đền cổ độc đáo ở Thái Bình - Ảnh 20.

Chiêm ngưỡng ngôi đền cổ độc đáo ở Thái Bình - Ảnh 21.

Chiêm ngưỡng ngôi đền cổ độc đáo ở Thái Bình - Ảnh 23.

Chiêm ngưỡng ngôi đền cổ độc đáo ở Thái Bình - Ảnh 27.

Chiêm ngưỡng ngôi đền cổ độc đáo ở Thái Bình - Ảnh 28.

Chiêm ngưỡng ngôi đền cổ độc đáo ở Thái Bình - Ảnh 29.

Chiêm ngưỡng ngôi đền cổ độc đáo ở Thái Bình - Ảnh 24.

Đến thế kỷ XIII, khi giặc Nguyên Mông tràn vào bờ cõi nước Nam, Đảo Động lại là nơi đóng quân và luyện tập thủy chiến, binh nhung của Nhà Trần. Trước khi xung trận, Hưng Đạo Đại Vương cùng các tướng lĩnh đều về dâng hương. Sau ngày đại thắng, nhà Trần đầu tư công sức, tiền của để tôn tạo bản đền. Ngưỡng mộ trước cảnh đền, Tướng quân Phạm Ngũ Lão đã vịnh bài thơ hiện còn lưu lại trên bức cuốn thư tại cung Đệ Nhị.

Chiêm ngưỡng ngôi đền cổ độc đáo ở Thái Bình - Ảnh 26.

Trải qua sự phong hóa của thời gian và sự tàn phá của chiến tranh, ngôi đền đã có ít nhiều thay đổi, song vẫn được đánh giá là một di tích lịch sử văn hóa có giá trị mỹ thuật cao. Đặc biệt, tại đây còn lưu giữ được nhiều đồ tế khí có giá trị như các bài vị từ thời Lê khắc chữ vàng. Toàn bộ công trình kiến trúc gỗ như: Cuốn thư, hoành phi, câu đối, đại tự từ thời Vua Khải Định, Bảo Đại vẫn còn được lưu giữ cơ bản nguyên vẹn.

Chiêm ngưỡng ngôi đền cổ độc đáo ở Thái Bình - Ảnh 31.

Chiêm ngưỡng ngôi đền cổ độc đáo ở Thái Bình - Ảnh 30.

Ngoài Đền Đồng Bằng, tại khu Quần thể du lịch Tâm Linh Phủ Dầy cũng có đền Vua Cha Bát Hải. Tại Phủ Vân Cát – Phủ Dầy cũng có một đền nhỏ thờ Vua Cha Bát Hải….Một số ngôi đền khác Vua Cha Bát Hải Động Đình cũng được phối thờ.

Tam kỳ linh ứng trong hiệu của Đức Vua Cha Bát Hải

Dân gian còn có truyền thuyết rằng: “Tam kỳ linh ứng” trong hiệu của Đức Vua Cha Bát Hải, không chỉ là ý Ngài phát tích ở ngã ba sông Vĩnh như thường nghĩ, mà còn là 3 lần Ngài hiển linh đánh giặc cứu nước Việt:

Lần 1 – Là Vĩnh Công Đại Vương – Bát Hải Động Đình

Lần 2 – Linh hiển trong hình tượng Vua Ngô Quyền đánh quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng.

Lần 3 – Linh hiển hóa thân thành Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn 3 lần đánh thắng quân Nguyên, và lần thắng oai hùng nhất là đại thắng thủy chiến Bạch Đằng giang.

Ngày khánh tiệc Đức Vua Cha Bát Hải

Theo tục lệ hàng năm, lễ hội đền Đồng Bằng được tổ chức kéo dài khoảng một tuần từ ngày 20/8 đến ngày 26/8 âm lịch, lễ hội thu hút đông đảo con nhang đệ tử, nhân dân và du khách gần xa.

Bản văn Đức Vua Cha Bát Hải thứ nhất

Đệ tử vọng bái khấu đầu
Thần tiến văn chầu cửa phủ Thái Ninh

Phủ Thái Ninh trong miền Phụ Dực
Danh tiếng đồn náo nức gần xa
Động Đình sông vắng ngã ba
Tối linh thượng đẳng trên toà uy nghi

Đôi bên ngựa phục voi quỳ
Phượng thì đua múa, hạc thì chầu lên
Trước án tiền nức mùi hương xạ
Trên đền hương khói toả vân long

Chữ rằng: “Vạn tuế thánh cung”
Quy mô lồng lộng, cửa rồng nguya nga
Dưới sông lác đác chèo qua
Buồm giương thuận gió ắt là Tiêu Tương

Cảnh lạ nhường cây chầu uốn éo
Lá dầm khê yểu điệu màu xanh
Bốn bề sơn thuỷ bao quanh
Gần xa đều đến phục tình làm tôi

Địa linh chiếm lấy một ngôi
Thiên hạ tái hồi về phục Đại Vương
Minh đường sơn thoải đại giang
Đôi bên huyền vũ cảnh càng thanh tao

Kẻ anh hào gần xa đều đến
Cầu việc gì ứng nghiệm linh thông
Có khi hoá vũ hành phong
Phép thiêng rẽ nước giao long đi về

Dưới Thuỷ Tề công đồng nghị luận
Trên Thượng Thiên mở trận mưa sa
Trần gian ai dễ biết thay
Độ cốt độ thày lại được ăn công

Thánh độ cho khắp thanh đồng
Có lòng thành kính ban công lộc nhiều
Bách quan văn vũ thần liêu
Khâm sai các bộ dập dìu đai cân

Đứng chật sân y quan lễ nhạc
Tửu tam tuần tiến bước thung dung
Tuần sơ tuần á tuần chung
Nội thông ngoại dẫn đôi lòng khoan thai

Lễ thưởng tiến cống đồ tươi
Sắc phong thượng đẳng muôn đời truyền lai
Hạ tuần tháng tám đôi hai
Trải qua xem rạng đua tài chèo bơi

Mở hò reo dưới sông lừng lẫy
Trên xướng ca đàn gẩy xênh trong
Bốn mùa xuân, hạ, thu, đông
Thảnh thơi thánh vực, ruổi rong thiên đàng

Trống vang lừng chiêng vàng điểm đót
Giọt đồng hồ thánh thót ngân nga
Dưới sông lừng lẫy kêu loa
Thượng từ đò Tị hạ là bến Bông

Đôi bên sông đỏ đào rực rỡ
Nhác trông lên đã ngỡ động tiên
Cõi trần đâu dễ mấy hơn
Thơm danh nức tiếng phủ miền Thái Ninh

Trên Thiên Đình khâm thừa đế mệnh
Dưới Việt Nam quốc chính hộ dân
Thần thông biến hoá muôn phần
Bùa thiêng phép diệu xa gần sợ uy

Mấy huyền vi thiên trường địa cửu
Phù hộ cho hoà hảo bách niên
Sinh ra con phượng cháu tiên
Lưu ân giáng phúc thiên niên thọ trường!

Bản văn Đức Vua Cha Bát Hải thứ hai

Nhang thành kính đôi lời giãi tỏ
Trước điện tiền lễ độ phục uy
Thoải đình Thánh Đế uy nghi
Quyền cai chính ngự ngọc trì bể Đông

Truyền thừa mệnh Long Cung Bát Hải
Thái Ninh từ chính đại quang minh
Ấy nơi tụ khí chung linh
Quyền cai thống lĩnh chư dinh thoải tề

Các cửa bể cửa sông Nam quốc
Một mối thông sau trước một nơi
Quy về long mạch chính ngôi
Đền Vua Bát Hải ở nơi Động Đình

Tòa thoải quốc nghê kình cai giữ
Tướng tam đầu cửu vĩ đôi bên
Long xà rẽ nước hiện lên
Thỉnh mời chư Thánh ngự đền Thủy Cung

Mở hội yến tòa trong chính điện
Ra lệnh truyền thủy tộc chư dinh
Bài sai các tướng thủy đình
Trấn an cửa bể giữ lành giúp dân

Thu bão táp ân cần tế độ
Dẹp an loài thủy quái yêu ma
Độ cho phong thuận vũ hòa
Dân an quốc thái nhà nhà an vui

Đội ơn đức muôn đời hằng nhớ
Gốc Lạc Hồng muôn thủa không phai
Hương thơm dâng trước đan đài
Vua cha ban phúc ban tài ban ân

Độ cho sở nguyện tòng tâm
Đa tài đa lộc thiên xuân thọ trường​!

Bản văn Đức Vua Cha Bát Hải thứ ba

Đây là bản văn chầu chung của các vị: Vua Cha Bát Hải Động Đình, Quan Lớn Đệ Tam và Quan Điều Thất.

Chiều Đông hải thiên thu bất diệt,
Trấn Tam Kỳ lẫm liệt uy dương,
Hùng triều thập bát quân vương,
Trị vì thiên hạ bốn phương thải hòa.

Trấn Đào Động có nhà hào kiệt,
Ứng mộng thần mãn nguyệt hoa khai,
Nhất bào sinh được ba trai
Phương phi diện mạo gồm tài võ văn.

Chốn hải tần bao năm hùng cứ,
Đạp sóng cần chế ngự can qua,
Đòi phen gió táp mưa sa,
Dương cờ giữ vững nước nhà Văn Lang.

Bỗng biên ải ô man dấy động,
Lệnh triều đình gióng trống ra quân,
Kíp sai Tản Lĩnh sơn thần,
Hợp cùng thuỷ bộ quân dân triệu người.

Từ mặt bể, sông ngòi khe suối,
Quyết ngăn phường lang sói xâm lăng,
Bốn phương chớp dậy sấm vang,
Rợp trời cờ xí ầm ầm quân reo.

Nước thủy triều mênh mông sóng bạc,
Trải bao phen gió táp mưa sa,
Quân dân giữ vững sơn hà,
Hùng triều thịnh trị, dân ta mạnh giầu.

Lập công đầu danh xưng bốn tướng,
Bản nguyệt tròn, tiệc thưởng mừng công,
Tam linh xuất thế anh hùng,
Cõi trời dở sổ thu trung triệu hồi.

Nước dẫu cạn, công người đâu cạn,
Đả dẫu mòn gương sáng còn soi,
Bể Nam thơm mãi muôn đời,
Đào nguyên cổ địa, nhớ người vì dân.

Đất Đằng lãnh phong thần ba vị,
Trấn Ninh Giang tú khí linh thông,
Thuỷ thần trở lại thủy cung,
Nước rẽ đôi dòng, thủy phủ – dương gian.

Khắp Đông Hải sấm ran từ đấy,
Thủy long hầu nổi dậy nơi nơi,
Uy linh chuyển đất động trời,
Phong – lôi – vũ – điện dẹp loài ô man.

Ta vâng lệnh Phù Tang đại đế, (Thủy phủ thánh đế)
Trấn Tam Kỳ linh khí dài lâu,
Ai gây gió thảm mưa sầu,
Bão kia sẽ đổ lên đầu vô lương.

Tam kỳ lộ trấn an cửa bể,
Cảnh thái bình thịnh trị muôn xuân,
Vũ Tiên, Phụ Dực xa gần,
Duyên Hà, Tiền Hải nhân dân nức lòng.

Kiến Xương phủ cùng trong Thái địa,
Cảnh Thư Trì – Tân Đệ mênh mông,
Nhị hà tẩy giáp thu trung
Đông đô cổ miếu Thăng long phụng thờ.

Ghềnh nhị thủy Tây hồ – Lãng bạc,
Hàm tử quan, Nguyên Khiết Chương dương,
Tuần Vương đến Lục đầu giang,
Phong Châu, Tuần Hạc tấm gương muôn đời.

Trải Thục, Triệu đến đời Lê – Lý,
Sắc phong thần ngự trị Hải vương.
Nguyện chiêm thủy đức uông dương.
Ân ba tẩm nhuận bốn phương thái hòa.

Trần – Lê – Trịnh – Nguyễn ra kế vị,
Giặc Tây phương áp chế nhân dân,
Miếu xưa phụng sự thủy thần,
Thờ người cứu nước cứu dân tiền triều.

Bắt di chuyển làm theo pháp lệnh,
Bỏ miếu đường thánh cảnh điêu linh,
Có nhà họ Vũ phúc lành,
Rước về phụng sự đế kinh lâu dài.

Dựng đền phủ giữa nơi kỳ lộ,
Cảnh hữu tình trên bộ dưới sông.
Đồng Bằng, Cổ Tuyết – Thăng Long,
Còn ghi dấu tích nhớ công ơn Người.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *