Mẫu Thượng Thiên – Liễu Hạnh Công Chúa
Liễu Hạnh Công Chúa là một trong những vị Nữ Thần quan trọng của tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Ngài còn được gọi bằng các tên: Bà Chúa Liễu, Thánh Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Liễu Hạnh, hoặc ở nhiều nơi thuộc vùng Bắc Bộ, bà được gọi ngắn gọn là Thánh Mẫu.
Theo truyền thuyết dân gian Việt Nam, Thánh Mẫu Liễu Hạnh là một trong bốn vị Thánh Tứ Bất Tử cùng với Tản Viên Sơn Thánh, Phù Đổng Thiên Vương và Chử Đồng Tử.
Ba vị thánh đầu tiên đều xuất hiện vào thời vua Hùng trong vương triều Văn Lang, riêng Thánh Mẫu Liễu Hạnh xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1434, vào thời vua Lê Thái Tông vị hoàng đế thứ 2 của triều Lê nước Đại Việt, trị vì năm 1433 – 1442.
Thánh Mẫu Liễu Hạnh tượng trưng cho cuộc sống tinh thần, đức hạnh, trí tuệ. Mẫu là vị Thánh linh thiêng do kết nối được các quyền lực: Quyền lực Phật giáo: Mẫu quy y cửa Phật, trở thành Mã Vàng Bồ Tát; Quyền lực Đạo giáo: Mẫu được cho là con gái thứ hai của Ngọc Hoàng Thượng Đế; Quyền lực Vương triều: Mẫu được các triều đại phong kiến từ thời Hậu Lê đến thời nhà Nguyễn cấp nhiều sắc, tôn phong là “Mẫu Nghi Thiên Hạ – Mẹ của muôn dân”, ”Chế Thắng Hoà Diệu Đại Vương”,…
Thần tích Đức Thánh Mẫu Liễu Hạnh
Theo tư liệu lịch sử
Theo văn bia Phủ Nấp của cụ giáo Du
Trong bản chép văn bia Phủ Nấp của cụ giáo Du (người thôn Vọng, xã Đại Đồng, huyện Ý Yên), có một bia với tiêu đề Quảng Cung Linh Từ bi ký. Văn bia này do ông Nguyễn Đình Việp (lúc đó là Tri huyện Đại An) soạn năm Cảnh Hưng thứ 2 (1741), nói về ba lần giáng sinh của Đức Thánh Mẫu Liễu Hạnh như sau:
Lần giáng sinh thứ nhất, tiền thân của Phạm công ở xã Trần Xá (Tràn) ở Đại An là phó sứ có tội. Thượng đế xét lòng thành cầu khấn của ông bà Phạm công, mới cho con gái thứ hai là Công chúa Hồng Liên giáng sinh vào nhà ấy vào giờ Dần ngày 06 tháng 03 niên hiệu Thiệu Bình năm đầu (1434), đặt tên huý là Tiên Nga, lớn lên tài sắc kiêm toàn, phụng dưỡng cha mẹ trọn đạo. Ngày 02 tháng 03 năm Quý Tỵ (1473) niên hiệu Hồng Đức thì hoá về trời đang tuổi 40. Dân sở tại nhớ ơn cứu bệnh giúp người nghèo, bèn lập đền thờ khói nhang tưởng mộ.
Lần giáng sinh thứ hai, ngài giáng tại thôn Vân Cát xã Yên Thái, vào nhà họ Lê có tên là Thị Thắng, lấy chồng người trong xã là Trần Duy Đào, sinh được một trai tên là Duy Nhâm. Kể từ ngày Giáp Dần tháng Giáp Thìn niên hiệu Thiên Hựu năm đầu (1557), đến ngày 3 tháng 3 niên hiệu Gia Thái thứ 5 (1577), vừa tuổi 21, thì mất.
Lần giáng sinh thứ ba, ngài giáng xuống xã Tây Mỗ huyện Nga Sơn vào giờ Dần ngày 10 tháng 10 năm Khánh Đức thứ 2 (1650) tái hợp với Đào Lang sinh được một trai là Cổn, đến ngày 5 tháng 2 năm Cảnh Trị thứ 6 (1668), trải qua 19 năm mới trở về Đế sở. Từ đó, Mẫu tuỳ nghi du ngoạn hoặc Đông Đô hoặc Lạng Sơn, ra oai cùng sỹ tử, tác phúc với lương dân,…
Theo Quảng Cung Linh Từ phả chí
Tư liệu tiếp theo là Quảng Cung Linh Từ phả chí viết năm Cảnh Hưng thứ 42 (1781) của Vũ Huy Trác (người Lộng Điền, đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân năm Cảnh Hưng 33 – 1772, trải các chức Lễ Bộ Tả Thị Lang, Quốc Tử Giám tư nghiệp, kiêm khu mật viện sự). Tư liệu này chép chi tiết hơn, như sau:
Lần giáng sinh thứ nhất: Nước ta vào thời Trần, ở huyện Đông Sơn có quan phó sứ Thiên Trường tên là Phạm Như Tiền, do bất cẩn trong việc quan bị tội, đày xuống hạ giới vào nhà họ Phạm ở Đông Ba huyện Đại An, làm con thứ, có tên là Đức Chính. Do Phạm công là con thứ, nên xin với cha xuống phường Trần Xá trong huyện, buôn bán tre gỗ,… rồi lấy người xóm Nhuế Duệ là Đoàn Thị Phương, hai người ở với nhau lâu chưa có con, bèn đến cầu tự ở chùa Phúc Lâm, sau sinh ra một cô gái xinh đẹp. Lúc ấy, đang giờ Dần ngày 06 tháng 03 năm Thiệu Bình thứ nhất (1434), đặt tên là Tiên Nga. Lớn lên chăm chỉ học tập, thông minh khác người, nhưng không lấy chồng. Ngày 10 tháng 10 năm Nhâm Ngọ (1462), thân phụ mất, an táng tại cồn đất phía đông nam phủ lị. Qua hai năm, thân mẫu cũng qua đời, đang ngày 20 tháng chạp năm Giáp Thân (1464), táng tại phía trái mộ thân phụ. Năm 35 tuổi, cải táng mộ song thân trọn vẹn, rồi chu du trong hạt giúp dân. Ngài đã có công: đắp đê Đại Hà trên từ bên phải núi Tiên Sơn dưới đến trại Tịch Nhi (xóm Gon); làm 15 cây cầu đá; khơi ngòi dẫn nước tưới tiêu khẩn đất ven sông; giúp người bần bệnh tiền bạc; sửa chùa đền; cấp lương tiền cho các vị hương sư, khuyên họ chăm việc dạy dỗ con em học tập. Sửa chùa Sơn Trương (Ý Yên), chùa Long Sơn (Duy Tiên), chùa Thiện Thành (Đồn Xá, Bình Lục), rồi ở tại Đồn Xá chiêu dân tái lập làng xã đến tháng giêng năm Nhâm Thìn (1472); Tháng 09 cùng năm trở về nơi ở cũ gặp thân thích cố cựu sửa đền thờ tổ ở phía nam thôn Đồi hạ. Bà còn viết nhiều thơ ca, chẳng hạn bài có tiêu đề “Nhàn cư bách thủ”,… Tháng Giêng năm Quý Tỵ lại đi đến các nơi ngày xưa từng tới, tháng ba về nhà ở, mơ thấy Phùng vương báo cho đến hạn về Đế hương. Khi ấy là ngày 02 tháng 03 năm Quý Tỵ (1473) thọ 40 tuổi. Sở tại đổi nơi ở cũ thành Đền thờ tự tri ân.
Lần giáng sinh thứ hai, giáng xuống đất xã An Thái huyện Thiên Bản, vào ngày 02 tháng 03 năm Thiên Hựu thứ nhất (1557) tại nhà họ Lê, tên là Thị Thắng sinh được một trai là Nhâm và một gái là Hoà. Đang lúc 21 tuổi, ngày 03 tháng 03 năm Gia Thái thứ 5 (1577), hết hạn cho phép, trở về linh tiêu, để lại con cho chồng là Trần Duy Đào. Có mộ để ở phần đất phía Nam xã nhà, cây cỏ bao phủ xanh tốt, bốn mùa khói nhang nghi ngút, linh dị khác thường.
Lần giáng sinh thứ ba, xuống thẳng đất Tây Mỗ huyện Nga Sơn, có tên là Hoàng Thị Trinh, lấy chồng là Mai Thanh Lâm, sinh được một trai đặt tên là Thanh Cổn. Kể từ ngày 10 tháng 10 năm Khánh Đức thứ 2 (1650), đến ngày 5 tháng 2 năm Cảnh Trị thứ 6 (1668), được 19 năm, thì trở về chốn Đế hương. Sau Chúa giáng bút đền ở Tây Mỗ, nói chồng mất ngày 23 tháng chạp, bà kế của chồng mất 14 tháng 08. Từ đó về sau, Chúa du ngoạn tuỳ nghi, ra oai giáng phúc chống lại triều Lê, cự lại cùng thiên sứ, xướng hoạ văn thơ với các văn nhân đương thời. Tiên Chúa đến nơi nào thì thường khuyên dân nơi đó chăm chỉ làm ăn, như Yên Mô thì trồng dâu nuôi tằm; Chúa có dạy học ở Thiên Quan, khẩn đất ở Cao Bằng, Lạng Sơn, Nghệ An,… Khi Chúa đi rồi dân nhớ ơn lập đền thờ, tạc bia đá, viết từ phả,… Các đời vua đều ban sắc tặng. Ở đền Quảng Cung có 23 đạo sắc, đạo sắc sớm nhất có niên hiệu Hoằng Đình năm đầu (1601). Người ở An Thái và Tây Mỗ đem lễ đến kính tế từ năm Vĩnh Trị thứ 2 (1677), đến nay (thời điểm 1781) đã được 15 lần. Đền Quảng Cung xưa có lệ quốc tế, từ niên hiệu Cảnh Hưng năm đầu (1740) trở đi, thì mỗi khi đến ngày kỵ, quan phủ Nghĩa Hưng vâng mệnh bề trên đến lễ.
Theo Ngọc Phả (Lần giáng sinh thứ hai)
Chép theo ngọc phả thời tiểu sử Đức Thánh Mẫu Phủ Dầy thực là giản dị không có chút gì là huyền bí cả. Đức Thánh Mẫu Phủ Dầy giáng sinh đêm trăng rằm tháng 8 năm 1557 (năm Đinh Tỵ – Lê Thiên Hựu đệ nhất tức đời vua Lê Anh Tông) tháng Thìn, ngày Dần, giờ Dần. Năm 1577 (năm Đinh Sửu) không bệnh mà mất.
Thân phụ Ngài là Lê Công Chính và thân mẫu Ngài là Trần Thị Phúc.
Cao cao Tổ thuộc dòng dõi họ Lê ở trong Thanh Hóa, ở ẩn ra ngoài làng Kẻ Dầy, đổi sang họ Trần, tới đời thứ 3 thì lại đổi về họ Lê (Lê Công – Lê Đức Chính). Sau này con cháu mang dòng họ Trần Lê.
Lê Công đặt tên Ngài là Lê Thị Thắng, tên riêng của Ngài là Giáng Tiên vì ngài đẹp như tiên giáng trần.
Lê Công là một nhà nho, phong lưu, sung túc, người ở xã Tiên Hương, có đủ vật lực cho con gái theo đòi bút nghiêng , thi thư kinh sử, may vá thêu thùa. Nàng Giáng Tiên hồi bấy giờ thật là một người con gái hoàn hảo, có nhan sắc thông minh, nết na, lại tài giỏi về nữ công, âm nhạc, thi phú.
Những lúc nhàn rỗi, Giáng Tiên thường dạo chơi ra vườn gẩy đàn ngâm thơ. Hiện vườn ấy hãy còn di tích, lại đăng sau đền thờ Mẫu ở xã Tiên Hương bây giờ. Các bài thơ của nàng Giáng Tiên soạn còn truyền lại được bốn bài vịnh xuân, hạ, thu đông.
Năm 19 tuổi thì Giáng Tiên xuất giá kết hôn cùng với Trần Đào Lang. Đào Lang là con nuôi một ông quan hưu trí họ Trần ở thôn Vân Đình cũng thuộc xã Tiên Hương. Tục truyền rằng ông quan họ Trần ấy đã nhiều tuổi mà không có con, một hôm ra dạo mát vườn hoa tìm được một cậu bé, ai đem bỏ ở gốc cây đào, bèn đem về nuôi và đặt tên là Đào Lang.
Nàng Giáng Tiên về nhà chồng, trên thuận dưới hòa, nức tiếng là người hiền phụ. Đước một năm sinh hạ được một giai đặt tên là Lê Nhâm, năm sau nữa lại sinh thêm được một gái tên Lê Cổn.
Sau khi lấy vợ, Đào Lang tỏ vẻ hơi trễ nải việc học hành. Nhân lúc canh khuya dệt vải, nàng Giáng Tiên làm một vài thơ có 28 vị tinh tú để răn đức lang quân. Đào Lang cũng họa một bài có 28 vị sao, và sau khi ấy trở nên rất chăm chỉ.
Giữa lúc gia đình đang sống trong cảnh yên vui, đầm ấm, trên có cha mẹ già, dưới có hai con thơ, vui vầy sum họp thì thương ôi nàng Giáng Tiên tự nhiên vô bệnh mà mất. Nàng mất năm 1577 (năm Đinh Sửu), giờ Dần ngày mùng 3 tháng 3, khi ấy mới vừa 21 tuổi, mộ táng ở xứ Cây Đa xã Tiên Hương, hiện nay lăng của ngài vẫn còn ở đấy. Năm 1938, người trong họ Đào chi và những người tín ngưỡng Đức Thánh Mẫu ở trong Trung Kỳ đã hưng công đóng góp xây dựng thành một ngôi lăng mộ Đức Thánh Mẫu Phủ Dầy nguy nga tráng lệ.
(Nội dung bài viết chép theo cuốn Hội Phủ Dầy – Sự tích Đức Thánh Mẫu Liễu Hạnh Công Chúa – Tác giả Phạm Quang Phúc (tri huyện Vụ Bản biên tập năm 1942) – Nhà xuất bản Thế Giới ấn bản năm 2021)
Cung cấm thờ Đức Thánh Mẫu Phủ Dầy tại Phủ Chính – Phủ Dầy Nam Định
Về việc thờ tự Mẫu ở khu vực đền Tiên Hương, theo ông Trần Lê Nhuận xóm 1 Tiên Hương xã Kim Thái huyện Vụ Bản:
- Cụ tổ Lê Công Tiên giỗ 18 tháng 4,
- Bà Từ Huệ giỗ 8 tháng 4,
- Ông Phúc Lương giỗ 9 tháng 9,
- Bà Từ Đường giỗ 17 tháng 2,
- Ông Đức Chính giỗ 9 tháng 9,
- Bà Diệu Phúc giỗ 15 tháng 12,
- Ông Duy Đào giỗ 5 tháng 5,
- Bà Thị Thắng giỗ 3 tháng 3,
- Ông em, tên là Lâm, giỗ 24 tháng 12,
- Bà Sâm, tên tự là Duy Tiên, giỗ 9 tháng 3,
- Bà Liên, tên tự Quế Anh, giỗ 15 tháng 3,
- Ông Từ Huyền giỗ 5 tháng 3,
- Bà Vĩnh giỗ 25 tháng 2.
Có thể thấy liệt kê trên đây là ngày giỗ của vợ chồng Mẫu (Thị Thắng và Duy Đào), và của thân thích trước sau.
Hiện ở Phủ Chính, có bài vị mang dòng chữ: “Sắc tặng khải sinh thánh phụ Trần công huý Chính, dực bảo trung hưng trung đẳng thần” và “Sắc tặng khải sinh thánh mẫu Trần môn chính thất huý Phúc, dực bảo trung hưng trung đẳng thần”, “Sắc tặng phu quân Trần công huý Duy Đào, trung đẳng thần”, “Sắc tặng Trần công huý Nhâm, trung đẳng thần” .
Như vậy, trong quan hệ với Mẫu, ông Lê Công Tiên là bố đẻ và bà Từ Huệ (Trần Thị Phúc) là mẹ đẻ, ông Lê Công Lâm là em ruột, bà Sâm tức Duy Tiên phu nhân là em dâu, bà Liên tức Quế Anh hay Quế Hoa là cháu.
Về phía chồng, ở xóm Vân Đình (Giáp Nhì), đều có bài vị thờ ở Phủ Tiên Hương. Mộ phát tích thì tại xứ Cây Đa Bóng, có mộ cha đẻ tại xứ La Hào (Giáp Ba) là mộ tổ tứ đại, còn cồn cây đa là mộ Mẫu nơi chôn cất xác phàm, nơi sau này ba chị em họ Lê thuộc Hội Đào chi (Huế) đã xây thành lăng đá năm Bảo Đại Mậu Dần (1938).
Theo các bản văn khấn tế
Bài văn tế dùng để tế Thánh Mẫu tại Phủ Tiên Hương do Hà Tông Quyền (Lễ bộ Hữu Thị Lang, Phương Trạch hầu) viết năm Minh Mệnh thứ 9 (1828), tạm dịch nghĩa:
“Kính trông Thánh Mẫu,
Phong độ người tiên, giá trong băng ngọc,
Hẹn năm trăm tốt đẹp, do Côi Hoàng anh tú sinh ra,
Nổi danh Thiên Bản lục kỳ, tới Sòng Cát thiêng liêng rõ rệt,
Có nguồn gốc tự Quảng Cung, thực là thần hoá,
Vọng tiếng tăm trong thiên hạ, chỉ bởi hiếu trinh,
Rồi đến Vân Cát, khuôn mẫu mẹ bao trùm hải nội,
Luôn vì phu tử, lòng nhân từ nhuận thấm sơn hương,
Buổi Tây Mỗ, đoạt thân Hoàng thị tái hợp Đào quân,
Ngụ Kẻ Sỏi dạy con học hành, cho tròn phụ đạo,
Với nhà, sùng phụng Mẫu nghi, ngàn thủa cung đình rực rỡ,
Với nước, tôn phong Vương vị, các triều hoa cổn biểu dương,
Lũ dân con từ lâu kính thờ hương khói, đội đức sinh thành…
Ngẩng đầu trông đợi chở che, thanh cao tượng pháp,
Nhìn xuống xiết bao sợ hãi, rẽ rọt tâm linh…
Giấc mơ nghe nhạc quân thiên, gió đưa vận dao cầm phảng phất,
Lòng nghỉ ở ăn đất Thánh, sân phô bày gây hội nghiêm trang,
Nay nhân gặp tiết theo xưa, kiến sâu dãi tỏ,
Lại sắm vi thành tục cũ, lớn bé xếp hàng,
Mong cho bách tính quân an, dưới trên hoà thuận,
Chỉ nguyện tứ dân lạc nghiệp, đi lại hanh thông,
Thần soi xét từ sự cao minh, thâu cùng vật loại,
Đức quảng đại bao hàm non nước, vọng khắp cổ kim,
Thực trông ơn tế độ âm phù hết sức vậy.
Cẩn cốc !”
Trong lời khấn ở Phủ Tổ họ Trần ông Trần Bình Hành hậu duệ của Mẫu, có đoạn:
“Có tổ nội ở La Hào, mộ để tọa khôn hướng cấn,
Còn quê chồng nơi Nhị giáp, trạch an hướng tốn tọa càn.
Với cha hiếu thuận đâu người sánh,
Cùng chồng trinh bạch ít ai so.
Nối tiền kiếp giáng sinh ở chân trời,
Cửa nhà ấm áp, dạy hậu duệ phong hoá từ chóp núi,
Ngày tháng thanh đạm.”
Bài thơ của Lã Xuân Oai nói về Phủ Tiên Hương (bài dịch của Bùi Hạnh Cẩn):
“Ai biết đền xưa được tỏ tường,
Tâu bày với Mẫu nén tâm hương.
Trông ơn non Thái lời chung thuỷ,
Nhờ đức làng Tiên giữ kỷ cương.
Sao để Lạc Hồng không thẹn bóng,
Chỉ mong Tiên Chúa sớm lo lường.
Nổi danh đệ nhị còn gia tộc,
Nam bắc ngàn thu một chiếc gương.”
Hiện nay, còn thấy cuốn thư gỗ treo ở gian giữa tiền đường Phủ Chính có chữ đề của Tam Thanh Ngô Giáp Đậu (Nam Định đốc học, đậu năm Mậu Ngọ niên hiệu Khải Định – 1918):
Nhất đạo kim bài hạ cửu thiên,
Nam châu thần phả Cát sơn tiên.
Cổ truyền An Thái trung linh địa,
Do ký Dương Hoà hiển thánh niên.
Kinh tạng mặc thông tam muội quyết,
Từ quang phổ tác vạn gia yên.
Phong thanh cố quốc sùng vương mẫu,
Miếu mạo thiên thu hưởng tự quyền.
Tạm dịch:
Một thẻ vàng trao chốn cửu thiên,
Cõi nam Vân Cát một người Tiên.
Vẫn rằng Yên Thái nơi quê cũ,
Còn nhớ Dương Hoà nổi tiếng thiêng.
Tam muội làu thông kinh sách quý,
Muôn nhà nhờ cậy khói nhang tôn.
Phong thanh cố quốc nêu Vương Mẫu,
Đền miếu ngàn thu kính lễ truyền.
Bài thơ của Ngô Giáp Đậu nhắc lại tích truyện trong tiết vạn thọ của vua cha Ngọc Hoàng, tiên chúa đánh rơi chén ngọc, vỡ mất một góc. Vua cha giận, đuổi xuống đầu thai vào nhà Lê Đức Chính, Trần Thị Phúc Thuần ở thôn Vân Cát, xã An Thái huyện Thiên Bản, sau lấy chồng có con. Niên hiệu Dương Hoà năm thứ 8 (1642), tổ chức thi bách thần, các kiệu của thần khác từ Tản Viên đến các Thành Hoàng đều không có sự hiển dị, riêng có kiệu Mẫu thì tấm vóc đỏ phủ kiệu bay lên trên trời, rồi hoá ra đám mây năm sắc, giữa đám mây có mảnh gấm đỏ, trên có 4 chữ lớn “Thánh Thọ vô cương” hàng dưới có 6 chữ nhỏ hơn “Mã Vàng Công Chúa tạ ân”. Các chữ này tồn tại từ đầu giờ Thìn đến cuối giờ Ngọ mới tán, thì tấm gấm lại bay từ trên không bay về trùm lên kiệu như cũ.
Cũng vào thời Hậu Lê, sau khi quy y Phật, thì Mẫu phù hộ nhà chúa Trịnh đánh giặc thắng lợi được vua phong cho chữ “Chế Thắng Bảo Hoà Diệu Đại Vương” (Làm cho thắng lợi, giữ sự hoà hoãn, là công lao của vị đại vương nữ). Đó là việc năm Vĩnh Trị thứ 2 (1677).
Theo truyền thuyết về ba lần giáng sinh
Đức Thánh Mẫu Liễu Hạnh giáng sinh trước sau ba lần:
(1) Lần thứ nhất Thánh Mẫu phụng mạng giáng sinh.
(2) Lần thứ hai Thánh Mẫu bị trích xuống trần.
(3) Lần thứ ba Thánh Mẫu tình nguyện xuống trần.
Thánh Mẫu giáng sinh lần thứ nhất (1434 – 1473)
Vào đầu thời nhà Hậu Lê, tại ấp Quảng Nạp, xã Vỉ Nhuế, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng, trấn Sơn Nam; có một người gọi là Phạm Thái Ông, hiệu là Huyền Viên, húy là Đức Chánh, người xã La Ngạn kết duyên cùng bà Đoàn Thị Hằng, người ấp Nhuế Duệ, cũng xã Vỉ Nhuế (nay là thôn Vỉ Nhuế, xã Yên Đồng, Ý Yên, tỉnh Nam Định) gọi là Phạm Thái Bà hiệu là Thuần Nhất.
Hai ông bà ăn ở rất hiền lành phúc hậu, ngày đêm chỉ lo vun trồng cội đức, bồi đắp ngành nhân, hằng tâm đã sẵn hằng sản lại nhiều, cho nên sự làm phúc càng ngày càng tăng tiến. Nào là tô tượng đúc chuông, nào là xây chùa lập miếu, nào là san cơm xẻ áo cho kẻ bần cùng, nào là phát gạo cấp tiền cho người cô quả. Nói tóm lại là không có một việc thiện nào mà không có hai ông bà họ Phạm.
Nhưng Phạm Thái Ông, và Phạm Thái Bà, có một nỗi buồn riêng, là hào tử tức vẫn còn hiếm, buồn rồi lo, vì tuổi đã nhiều mà con chưa có, không biết lấy ai mà kế thế về sau, để giữ lấy cơ đồ họ Phạm. Thường ngày Phạm Thái Ông, cùng Phạm Thái Bà cứ thiết đàn làm chay, cầu trời khấn phật xin cho có con hậu tự. Lòng thành thấu đến trời xanh, việc cầu tự, đức Ngọc Hoàng động tâm, xét sổ Nam Tào thấy Phạm Thái Ông khi xưa làm Phó Sứ Thiên Triều Khâm Sai tra sổ, bị có điều bất công, nên phải bị tích xuống cõi trần thế; bởi vậy lời cầu của đức Phạm Thái Ông được trên Thiên Đình doãn hợp. Đức Ngọc Hoàng tức thì hạ lệnh, truyền đòi đệ nhị Tiên Nương lên chầu, mấy phút sau, đã thấy một vị Tiên Nương mặc áo hồng, gót sen nhẹ bước, quỳ lạy trước sân rồng, chờ lệnh.
Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế phán rằng: “Trần Hoàng có Phạm Thái Ông tu nhân tích đức đã lâu mà chưa có con nối hậu, nay cha muốn con xuống đầu thai làm con nhà họ Phạm ít lâu, rồi sẽ trở về Linh Tiêu vậy con nghĩ sao?”
Đức Tiên Chúa tâu rằng: “Đội đức Thiên Nhan, non cao bể rộng, khôn toan cưỡng lời, Hoàng phụ phán dạy mấy lời con xin tuân mạng”.
Đức Thượng Đế nghe Tiên Chúa cũng vui lòng thuận xuống trần, thì trong lòng vui vẻ lắm. Lúc đó, Quần Tiên tâu hỏi đức Thượng Đế rằng: “Cho Tiên Chúa xuống trần độ bao nhiêu lâu”. Đức Thượng Đế liền cất bút son ngự phê hai chữ Linh Tiêu trên đầu tên của đức Tiên Chúa, và phía dưới năm chữ: “Tứ phương lai cúng Phật” . Rồi truyền cho lui chầu.
Buổi Thiên Triều hội nghị chính vào ngày rằm tháng sáu năm Quý Sửu, niên hiệu Thuận Thiên lục niên (1433), triều vua Lê Thái Tổ. Giờ Tý đêm hôm đó, Phạm Thái Bà nằm chiêm bao thấy có Đức Tây Cung Vương Mẫu cho một quả đào, mùi thơm ngào ngạt, kế đó Phạm Thái Bà có thai.
Đến ngày giáng thế, Đức Tiên Chúa trước vào lạy Đức Hoàng Phụ, và Mẫu Hậu, rồi trở ra chào văn võ bá quan cùng các vị Quần Tiên, và dặn dò đâu vào đó, xong rồi mới bước lên loan xa đã chờ sẵn trước Thiên Môn, tức thì:
Sanh ca đàn hát đôi bên
Dập dìu phụng liễn xuống miền nhân gian
Cờ bay nhạc nổi trống vang
Theo hầu Tiên Chúa cả đoàn Tiên Nga.
Đêm đó Phạm Thái Ông nằm ngủ, mơ màng thấy các vị Tiên Nga vào nhà mình, mùi thơm ngào ngạt, Phạm Thái Ông vội vàng khăn áo chỉnh tề để ra nghênh tiếp. Khi bước xuống thềm, vì lòng kính sợ, khúm núm thụt lùi trật chân sắp ngã, lúc đó Phạm Thái Ông giật mình tỉnh dậy thì Phạm Thái Bà đã sinh được một người con gái:
Nhãn quan lóng lánh tinh thần
Mây ngần vành nguyệt giá ngần vóc sương
Má đào môi hạnh phi thường
Giá so Tố-nữ Tiên-Nương khôn bì
Lúc đó chính vào giờ dần, niên hiệu là Thiệu Bình nguyên niên, triều Vua Lê Thái Tôn Hoàng Đế (1434) trong nhà thơm nức mùi hoa huệ, ai ai cũng lấy làm mừng, và lấy làm lạ. Hoa huệ đó là các vị Quần Tiên đem dâng đức Tiên Chúa trong khi tạm biệt.
Phạm Thái Ông thấy con mình hình dung tuấn tú, cốt cách phi phàm, lại nhân thấy chiêm bao các vị Tiên Nga vào nhà, nên đặt tên là Tiên Nga. Gặp cảnh lão bạn sanh châu, Phạm Thái Ông cùng Phạm Thái Bà chăm nom săn sóc cho một cách khác thường, nói không hết được, thật là:
Yêu như ngọc dấu như ngà
Nâng châu rún biển, hứng hoa lưng trời
Màn the trướng gấm thảnh thơi
Thâm khuê dưỡng dục, khác vời Tiên cung.
Phạm Thái Ông cùng Phạm Thái Bà từ khi sinh ra Tiên Chúa thường bảo nhau rằng:
“Từ khi kết nghĩa với nhau đã hơn hai mươi năm, mà chưa hề sinh nở lần nào, thế là biết hào tử tức của ta hiếm lắm, bây giờ ta đã già rồi mới có. Chắc vì thường ngày chúng ta hay làm những điều phước thiện, cho nên Hoàng Thiên không nỡ phụ lòng, thật là cảm ơn Trời Phật không biết nhường nào”
Phạm Thái Ông, cùng Phạm Thái Bà nghĩ vậy, nên lại lo làm những điều phước thiện hơn trước. Ngày tháng thoi đưa, thì giờ thấm thoát, Tiên Chúa đã lên năm tuổi, tức là năm Mậu Ngọ niên hiệu Lê Thiệu Bình ngũ niên (1438). Đức Tiên Chúa biết mình thác sinh vào cửa nhà giàu, trong lòng không lấy làm vui, vì Đức Tiên Chúa tự nghĩ sinh vào nhà nghèo thì Đức Tiên Chúa dễ báo hiếu hơn. Đến năm Quý Hợi niên hiệu Thái Hòa nguyên niên (1443) triều Vua Lê Nhân Tôn, Đức Tiên Chúa lên mười tuổi khi đó đã có tri thức thông minh, con gái trần gian vào tuổi đó đương độ thơ ngây, có biết gì là sự khôn dại, là sự hiếu thảo, nhưng Đức Tiên Chúa đã xuất tính khác thường, rất là hiếu thuận, cung phụng hai thân mẫu, mùa hạ quạt mát mùa đông chăn mền. Những khi Phạm Thái Ông, hay Phạm Thái Bà có đau ốm thì Đức Tiên Chúa ngồi hầu luôn bên trướng, nửa bước không rời, lo chăm thang thuốc, lo việc cháo cơm, đến khi nào cha mẹ hết bệnh thì Đức Tiên Chúa mới an lòng. Có một đêm về mùa đông tuyết sương lạnh lẽo, Phạm Thái Ông lâm bệnh đã ba bốn ngày, thuốc thang không chuyển. Đức Tiên Chúa lấy làm lo lắng, ngày biếng ăn, đêm quên ngủ, vóc ngọc mình mai, hình dung tiều tụy, thật là bề trong trăm phần buồn bã, mà bề ngoài giả dạng làm vui, để cho Phạm Thái Bà yên dạ. Nhưng thấy bệnh Đức Phạm Thái Ông không giảm, Đức Tiên Chúa trong lòng hoảng hốt lúc đó lẻn dậy một mình, thắp hương ra giữa thinh không khấn với Phật Trời, phù hộ cho cha bệnh tình thuyên giảm. Phạm Thái Bà trở mình sực tỉnh không thấy con, liền gọi cũng không thưa, bèn thắp đèn đi tìm, Đức Phạm Thái Ông thấy thế cũng thức dậy. Bất đồ Phạm Thái Bà ra đến giữa sân, thấy Đức Tiên Chúa đương quỳ khấn nguyện, tuyết xuống phủ cả người, Phạm Thái Ông cùng Phạm Thái Bà thấy con như thế cảm động quá, chờ cho con khấn xong, mới gọi vào thay áo đi nghỉ. Đức Phạm Thái Ông thấy con mình còn nhỏ, mà đã chí hiếu như vậy, trong lòng khoan khoái vui tươi, từ đó về sau bệnh đều thuyên giảm, thật là:
Năm lên mười tuổi khôn thay
Một bề hiếu thuận nết na ai tày
Thung thuyên sớm dép túi dày
Quạt nồng đắp lạnh đêm ngày vào ra
Tôn thần thượng mục hạ hòa
Lời ăn tiếng nói nhu hòa khoan thai
Đủ điều ngôn hạnh công dung,
Song xem cốt cách khác người trần gian.
Đến tuần tam ngũ phương phi
Bạn tấn khách tấn dập dìu vãng lai.
Phạm Thái Công mới hỏi con:
Chiêu thân sớm định để già tâm khoan
Thấy con dưới gối thừa hoan
Thân con nên phải lo toan việc nhà
Đức Tiên Chúa, nghe song thân dậy thế, cũng cảm động, nhưng Tiên Chúa nhất định thủ tâm trinh bạch, bụi trần không chút vương dơ, liền tự nghĩ thưa rằng:
Nay con, đội đức sinh thành,
Ơn tày biển rộng nghĩa đà non cao
Hổ thần chút phận thơ đào
Hình lâm tử tức triệt vào cung phu
Cuộc đời như thể phù vân
Thần Tiên bận lấy duyên trần làm chi
Nhớ khi nuôi dưỡng phò trì
Nghĩ sao báo đáp ơn nghĩa cho phụ
Con xin dốc chí đường tu
Chiều hôm ban sớm duy du vui cùng
Mặc ai mối điệp tin ong
Mặc ai lá thắm chỉ hồng bạn duyên
Khi xưa phẩm cách người Tiên
Lẽ nào nỡ để hồng liên bùn lầy
Phạm Thái Ông, cùng Phạm Thái Bà nghe con nói đã cạn lời, ngỡ rằng con mình tiền thân Phật Quan Thế Âm giáng sinh chăng, nên cũng chiều lòng con, không nói đến sự nhân duyên nữa.
Đến năm hiệu Lê Thánh Tôn Quang Thuận tam niên, ngày 10 tháng 10 năm Nhâm Ngọ (1462) Đức Tiên Chúa hai mươi chín tuổi, thì Đức Phạm Thái Công tạ thế.
Ngán thay dưới đất trên trời.
Một người mà gánh hai vai thâm tình
Báo ân tứ đức sinh thành
Gần xa ai kẻ nức danh nữ tài.
Cử tang mới được hai năm, vừa Phạm Thái Bà cũng theo Phạm Thái Ông về nơi cực lạc. Tức là năm Giáp Thân niên hiệu Vua Lê Thánh Tôn Quang Thuận ngũ niên (1464), Đức Tiên Chúa lên ba mươi mốt tuổi, Đức Tiên Chúa đau lòng xót ruột ngất đi tỉnh lại không biết mấy mươi lần. Than ôi! trên không anh, dưới không em, một mình bối rối, ngậm thảm nuốt sầu, khó bề toan liệu, bèn mời các bậc trưởng lão trong làng, trong xóm lại bàn, các ông trông thấy Đức Tiên Chúa nết na hiếu đễ, ai cũng thương tình, rồi người giúp việc này, kẻ đỡ việc khác, sự tống táng Phạm Thái Bà rất là trọng hậu. Đức Tiên Chúa – Phạm Tiên Nga đã làm lễ an táng cha mẹ ở phía đông nam phủ Nghĩa Hưng (nay là thôn La Ngạn, ở đây có đền thờ Phụ thân và Mẫu thân của Phạm Tiên Nga).
Thân Đức Tiên Chúa bao quản tàn toan, nào hầu hạ họ đương làng nước, nào tiếp đãi kẻ viếng người thăm, nào lo việc thiết đàn làm chay, cầu siêu cho song thân, nào lo việc tống táng an toàn, nào lo sắm cỗ bàn thực phẩm để tiếp đãi bà con làng xóm, một mình Đức Tiên Chúa trăm tính ngàn toan, lo xong đâu vào đó rất là chu đáo. Sau việc tống táng xong rồi, Đức Tiên Chúa lại lo báo đáp những kẻ có công, lạy tạ những người giúp việc, không sót một điều gì đáng trách được, đến tuần tứ cửu làm chay, đại đàn bố thí bảy ngày đêm, Đức Tiên Chúa cầu nguyện cho vong linh hai thân được siêu độ, lòng hiếu thảo thấu đến cửu thiên.
Đức Thượng Đế liền truyền đem bộ trắc giáng ra ngự lãm, Đức Thượng Đế thấy Tiên Chúa còn mười năm nữa mới đến hạn quy tiên. Còn Phạm Thái Ông, cùng Phạm Thái Bà, hằng ngày lo làm điều phước thiện, tu nhân tích đức, cũng được siêu độ.
Từ ngày Thung Huyên khuất núi, Đức Tiên Chúa buồn rầu, ngày biếng ăn, đêm biếng ngủ, chỉ thở vắn than dài, không còn muốn gì nữa, ở trong làng có một ông cụ già, thấy Đức Tiên Chúa nết na hiếu thuận cũng thương tình, mới đến khuyên giải, bày vẽ cho Đức Tiên Chúa rằng: “Đạo làm con, khi cha mẹ mất rồi, không phải là than phiền như thế mãi mới là hiếu, hai ngài không có con trai, chỉ một mình cô là gái, mà cô không xuất giá, thế là gái cũng như trai, cô nên giải sầu làm vui, chăm sóc làm ăn, mà giữ bền cơ nghiệp, kẻo một mai cơ đồ sa sút, chắc hai ngài ở dưới hoàng tuyền cũng không được thỏa dạ, cô nên nghĩ lại, khuya sớm giải khuây”
Đức Tiên Chúa nghe nói, mới hồi tỉnh liền quỳ xuống lạy tạ mà rằng: “Thưa Cố, những lời Cố dạy con xin ghi tạc vào lòng, và ơn đó, sau này con không dám quên”.
Từ đó về sau, Đức Tiên Chúa canh cửi vá may, lo lắng làm ăn, không buồn rầu như trước nữa. Có một hôm Đức Tiên Chúa thấy chiêm bao có bà Tam Tinh Công Chúa lại nói rằng: “Tôi là con gái Vua Động Đình; vâng mệnh lệnh đem vàng bạc châu báu lại giúp”. Quả nhiên, trong khoảng mười năm đó, tài chí như xuyên, Đức Tiên Chúa làm ăn phát đạt, chẳng bao lâu mà Đức Tiên Chúa giàu gấp năm gấp mười hơn trước. Đức Tiên Chúa cảm cái ơn đó, nên bây giờ cứ đệ niên đến ngày mười hai tháng tám là ngày kỵ Vua Động Đình thì Quần Tiên hội lại, trần thiết lễ nghi làm lễ chiêm bái, để tỏ lòng không quên gốc và ơn. Đức Tiên Chúa giàu thêm lên bao nhiêu, thì Đức Tiên Chúa lại làm phước thiện bấy nhiêu, nào trợ cấp cho đồng dân lo dựng chùa lập miếu cho làng, lo xây lăng đắp mộ cho các vị Tiên Linh, và sửa sang nhà từ đường để phụng sự, còn dư giả bao nhiêu, Đức Tiên Chúa bố thí cho tất cả bốn phương dân cùng.
Sau ba năm để tang cha mẹ, lo mồ yên mả đẹp, Phạm Tiên Nga bắt đầu chu du khắp nơi làm việc thiện (lúc này Tiên Nga vừa tròn 35 tuổi). Mẫu đã ủng hộ tiền của và công sức giúp dân đắp đê ngăn nước Đại Hà từ bên kia phía núi Tiên Sơn (nay là núi Gôi) đến Tịch Nhi (nay chính là đường đê Ba Sát, nối Quốc lộ 10 chạy dọc xã đến ngã ba Vọng. Đây cũng chính là con đường nối di tích Phủ Dầy với Phủ Quảng Cung). Cùng với việc đắp đê, Mẫu còn cho làm 15 cây cầu đá, khơi ngòi dẫn nước tưới tiêu, khai khẩn đất ven sông, giúp tiền bạc cho người nghèo, chữa bệnh cho người ốm, sửa đền chùa, cấp lương bổng cho các vị hương sư, khuyên họ cố sức dậy dỗ con em nhà nghèo được học hành. Năm 36 tuổi, Mẫu đến bờ Sông Đồi dựng một ngôi chùa trên mảnh vườn nhỏ, đặt tên là Chùa Kim Thoa. Bên trên thờ đức Nam Hải Quan Thế Âm Bồ Tát, bên dưới thờ cha và mẹ. Sau đó hai năm, Mẫu tới tu sửa chùa Sơn Trường – Ý Yên, Nam Định, chùa Long Sơn – Duy Tiên, Hà Nam, chùa Thiện Thành ở Đồn Xá – Bình Lục, Hà Nam. Tại chùa Đồn Xá, Mẫu còn chiêu dân phiêu tán, lập ra làng xã, dậy dân trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải. Tháng Giêng năm Nhâm Thìn (1472), Mẫu trở lại chùa Kim Thoa, và tháng 9 năm ấy Mẫu trở về quê cũ cùng các anh chị con ông bác tu sửa đền thờ Tổ họ Phạm khang trang bề thế (nay còn đền thờ ở phía nam xóm Đình thôn La Ngạn). Sau đó Mẫu lại đi chu du ở trong hạt, khuyên răn bà con dân làng những điều thiện phước.
Ngày tháng thoi đưa, chẳng bao lâu mà hạn của Đức Tiên Chúa về Linh Tiêu đã đến. Một buổi chiều kia, về tiết mùa xuân, năm Quý Tỵ, hiệu Lê Hồng Đức thứ tư (1473), Đức Tiên Chúa chẵn bốn mươi tuổi. Một hôm khí trời mát mẻ, trong vườn trăm hoa đua nở, trên cành oanh hót líu lo, Đức Tiên Chúa cũng nhân khi nhàn hạ, dạo gót sen ra vườn ngoạn thưởng xuân cho tiêu sầu giải muộn, bữa đó chính là ngày mùng chín tháng giêng, Đức Tiên Chúa sực nhớ lại ngày đó là ngày vạn thọ Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế. Rồi Đức Tiên Chúa mơ màng ôn lại trong trí nhớ rằng, hiện bây giờ trên điện văn minh Đức Thượng Đế còn đương:
Cân đai áo mão rỡ ràng
Các quan văn võ, bày hàng hai bên,
Quần thiên nhạc mới tấu lên
Trần chầu mã não ngự viên sẵn bày
Kim Đồng Ngọc Nữ đông thay
Bàn đào được tiến ngay ngự tiền
Đức Tiên chúa nhớ vậy lấy làm buồn lắm, nên thường thường trông cho ngày tháng mau qua, để đến hạn về trời mà hưởng vui cùng chị em trong cung Quảng. Bước qua tháng ba năm Quý Tỵ (1473), đêm mùng một, Đức Tiên Chúa thấy vị Thổ Thần tức là Phùng Vương đến tâu với Đức Tiên Chúa rằng:
“Quảng cai Long Mạch bấy lâu
Phụng sai rước Chúa về chầu Tiên Cung”
Tâu xong, bỗng có một trận gió ào ào, làm cho đổ lộc rung cây, có một đám mây ngũ sắc dựng lên, mùi thơm ngào ngạt, kế đó đá trên không trung rơi xuống, hiện ra các bà tiên nữ, Đức Tiên Chúa xem ra, đã thấy Quần Tiên chầu sẵn, có hai bà Tiên nữ, một bà bưng quả ngọc thạch, một bà bưng một quả ngọc đào, dâng lên Đức Tiên Chúa, liền đó, Tiên Chúa giở ra, sẵn có con dao, Đức Tiên Chúa liền cầm dao cắt quả đào, trật tay, rơi ba dây máu, ba dây máu ấy, bây giờ gọi là Ba Khê Công Chúa. Tiên Chúa còn đương xem ngón tay, thì xa loan đâu đã đến nơi rước Đức Tiên Chúa về chầu Thượng Đế; bữa đó chính là ngày mùng hai giờ Dần, tháng ba năm Quý Tỵ niên hiệu Hồng Đức thứ tư, triều Vua Lê Thánh Tôn (1473). Quần Tiên vâng mệnh chỉ truyền, Tam Tinh cùng với Chúa Tiên phản hồi, khi Tiên Chúa về đến Linh Tiêu, trước vào bái yết Phụ Hoàng, cùng Mẫu Hậu, rồi ra chào văn võ bách quan, sau đi thăm các vị Quần Tiên, cùng chị em trong cung Quảng thiệt là:
Bầu trời cảnh phật non tiên
Mới hay vui thú khác miền trần gian
Linh Tiêu ngày tháng thanh nhàn
Tràng sinh đơn nhược rõ ràng là đây.
Ngay sau khi Mẫu mất, nhân dân xã La Ngạn, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng đã lập đền thờ trên nền nhà cũ, gọi là Phủ Đại La Tiên Từ, đồng thời quê mẹ của Mẫu là xã Vỉ Nhuế cũng lập đền thờ để tưởng nhớ công lao của Thánh Mẫu gọi là Phủ Quảng Cung (thờ Công Chúa Liễu Hạnh).
Thánh Mẫu giáng sinh lần thứ hai (1557 – 1577)
Tại thôn Vân Cát, xã An Thái, huyện Thiên Bản, phủ Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định có một người tên là Lê Thái Ông hiệu là Đức Chánh. Vợ Trần Thị Tự hiệu là Phúc Thuần, ăn ở rất hiền lành phúc đức, ngày làm việc thiện gì thì đêm thắp hương cáo với Hoàng Thiên, Hậu Thổ trăm lần như một, đến năm bốn mươi tuổi, mới sinh được một người con trai đầu lòng đặt tên là Lê Lục. Đức Lê Thái Ông nguyên dòng dõi họ Trần, nhưng sau gặp loạn Hồ Quý Ly và Trương Minh Phụ giết hại Trần tôn thất nhiều quá, nên phải cải họ Trần ra họ Lê cho khỏi bị họa.
Đến năm Đinh Tý, Thiên Hữu nguyên niên triều Vua Lê Anh Tôn (1557), Lê Thái Bà có thai lần thứ hai, đã quá ngày sinh, mà chưa sinh được. Thường ngày các thức mặn không ưa, chỉ thích hoa quả mà thôi, trong nhà thấy thế, ngỡ là yêu quái nhiễu, bèn thiết đàn mời thầy phù thủy đến coi trừ tà trị bệnh, nhưng không hiệu quả, bệnh lại tăng thêm. Một hôm về tuần tháng 3 trời thanh trăng tỏ có một người chít khăn nâu áo vải ra dáng đạo nhân, đứng ngoài cửa xin vào chữa bệnh, người nhà không cho vào. Người đạo nhân cười mà nói rằng: “Ta đây có phép hàng long phục hổ, xuất u nhập minh, thấy nhà ngươi ăn ở hiền lành mới vào cứu giải, sao nhà ngươi lại không cho vào.”
Lê Thái Ông nghe nói liền mở cửa mời vào. Người đạo nhân vừa vào nhà, thì xõa tóc lên đàn, miệng niệm thông thiên thần chú, tay rút cái búa ngọc trong tay áo ra, rồi ném xuống đất, tức thì Lê Thái Ông mê thiếp đi, bằng theo tay ngã xuống, thấy hai viên lực sĩ đầu đội nón dấu, mình mặc áo giáp, tay cầm hèo hoa, lại dẫn ông đi, thì ông cũng cứ theo đi, đường đi khúc khuất quanh co, càng lên càng cao, hết tầng này qua tầng khác, sắc trời mờ mờ như sáng trăng, trông không được rõ. Đức Thái Ông đi mãi đã mệt, không muốn đi nữa, bèn nói với hai ông lực sĩ ngồi nghỉ, nhưng hai ông không nhận lời, lại còn giục Đức Thái Ông đi gấp nữa, và nói rằng: “Kia kìa, cửa Kim Khuyết đã gần đến nơi rồi, mời ông chịu khó đi gấp kẻo trễ”. Hai ông lực sĩ vừa nói vừa giục, tay chỉ cho Thái Ông xem, Thái Ông bất đắc dĩ cũng phải theo. Đi được một chốc nữa vừa đến, thấy một cái cửa làm toàn bằng vàng, sáng chói cả mắt, phía ngoài cửa ở tầng trên có hai con rồng chầu mặt nguyệt, ở tầng dưới có hai con phụng ngậm quyển thư, ở tầng trong có hai con kỳ lân giỡn quả cầu, ở tầng dưới có hai con quy đội đồ bát quái, làm toàn bằng ngọc cả. Đức Thái Ông đang ngẫm nghĩ một hồi thì hai ông lực sĩ đem áo lại cho ông thay, lại đưa ngài qua chín tầng cửa nữa mới đến một tòa nhà làm bằng mã não, hai người lực sĩ bảo ông đứng lại đó mà chờ. Mấy phút sau, chợt thấy đám mây hồng dựng lên, mùi thơm ngào ngạt, thấy ở trong đám mây bước ra một vị tóc bạc phau phau, khuôn mặt vuông chữ điền, màu da đỏ thắm, đội mũ bình thiên, tay cầm ngọc như ý, mình mặc long bào, ngồi trên một chiếc long ngai bằng vàng để trên bệ ngọc, chung quanh mình có một đạo hào quang chiếu sáng rực rỡ khắp một vùng trời, bốn phía có che cái tàng tía, hai bên có các quan đứng chầu, áo mão xiêm đai, văn quan võ tướng kể biết bao nhiêu, rất là nghiêm chỉnh, ở dưới trần thế Thái Ông chưa từng trông thấy. Nhạc quân thiên bắt đầu tấu trước, khúc nghê thường chén gót múa sau, trên mâm lưu ly dâng quả bàn đào của Đức Vương Mẫu trong bình đơn dược của Đức Lão Quân, hàng hà sa số châu bảo, không kể xiết.
Một lát, thấy một vị Tiên nữ áo hồng y vào làm lễ, bưng chén ngọc rượu chúc thọ, sẩy tay rơi xuống, lúc đó bên tả có một vị quan giở quyển sổ ngọc, biên vào ước chừng mười chữ, rồi thấy vị ngồi trên ngai rồng ở giữa thịnh nộ lôi đình liền quở rằng: “Sao người không tròn phận sự giữa Đế Đình như thế”. Đoạn rồi có hai vị sứ giả, và mấy người thị nữ, dắt người Tiên nữ mặc áo hồng ra đi ngã cửa nam, có một người cầm kim bài đi trước, trên kim bài có đề hai chữ Sắc Giáng, ở đoạn dưới có hai chữ Nam Nam, ở dưới nữa thì có nhiều chữ nhỏ, vì Lê Thái Ông đứng xa trông không được rõ. Lê Thái Ông quay lại hỏi hai ông lực sĩ rằng: “Đây là chỗ nào? đó là ai? và chuyện gì thế?”. Một người lực sĩ đáp rằng: “Đây là Thiên Đình, người ngồi giữa là Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế, còn người con gái mặc hồng y là Đệ nhị Quỳnh Nương bị trích giáng”. Người Lực sĩ vừa nói xong thì ở phía sau tả có một người quát hỏi: “Các ngươi làm chức tước gì, ở nơi nào dám tới đây?”, hai viên lực sĩ thưa rằng: “Chúng tôi là ngũ lôi thần binh, đến chờ chỉ”. Nói thế rồi hai viên lực sĩ lại đem ông về, lúc về thì bên thành trống đã tàn canh, Lê Thái Ông lần lần tỉnh lại. Lê Thái Bà đã sinh đặng một người con gái rồi.
Mùi thơm ngào ngạt, ánh hào quang rực rỡ đầy nhà, ai cũng lấy làm vui mừng. Trong khi cả nhà đang vui mừng cười nói, xóm làng bà con xa gần đều đến viếng thăm mừng rỡ, hiện lúc đó, thì ông đạo nhân đã biến đi lúc nào không biết, ai nấy cho là sự linh cảm, ngợi khen và bái tạ ông đạo nhân. Bữa đó chính là ngày Giáp Dần, giờ Dần tháng Ba (mùng ba tháng bính thìn), năm Đinh Tỵ niên hiệu Lê Thiên Hựu nguyên niên, triều vua Lê Anh Tôn (1557). Lê Thái Ông tưởng đến sự xuất thần cho được trông thấy như thế ắt là Tiên nữ giáng sinh, rất là mừng lắm, cho nên mới đặt con tên là Thắng hiệu là Giáng Tiên. Nhà Lê Thái Ông sở dĩ mà được Đức Thiên Chúa hạ sinh vào đó là nhờ được ngôi mộ tổ tam đại kết, ngôi mộ đó tọa khôn hướng cấn, ở xứ La Hào, thuộc làng An Thái, huyện Vụ Bản.
Đức Tiên Chúa lớn lên, da trắng phau phau, tóc mây xanh mướt, mắt long lanh như thu ba, mày vòng cong hình bán nguyệt, nhan sắc dị thường, trần gian hiếm có. Lê Thái Ông, cùng Lê Thái Bà yêu dấu như châu, như ngọc, cả ngày chỉ thay nhau bồng ẵm. Tháng ngày thoi đưa, chẳng mấy chốc mà Đức Tiên Chúa lên 5 tuổi, thường thường Đức Tiên Chúa ra chơi nhà ngoài, hỏi Đức Thái Ông những chữ trên câu đối, Lê Thái Ông bày qua cho một lượt, Đức Tiên Chúa nhớ suốt cả. Lê Thái Ông thấy tư chất thông minh, mới bày cho vịnh phú ngâm thơ và cho đi học, đến năm mười tuổi (1566) nào là ngũ kinh tứ thư, Đức Tiên Chúa đã thuộc lòng thông thạo, nói tóm lại Đức Tiên Chúa thông minh vốn sẵn từ trời.
Vả lại nhà Đức Thái Ông lại đông khách kẻ ra người vào, nên Đức Tiên Chúa không chuyên cần đặng sự học hành nghiên bút. Đức Tiên Chúa liền xin phép Lê Thái Ông cùng Lê Thái Bà ra ở riêng một cái nhà ở vườn sau cho tịnh, để đọc sách ngâm thơ, hai thân liền chiều ý Đức Tiên Chúa. Vì Lê Thái Ông cùng Lê Thái Bà thấy Đức Tiên Chúa thiên tự minh mẫn, nên đã làm sẵn cái nhà, đó là bản tâm để cho Tiên Chúa tịnh dưỡng, và tiện bề đèn sách. Đức Tiên Chúa thường hay đề thơ vịnh phú, đọc sách gẩy đàn.
Một ngày kia Lê Thái Ông dạo chơi trước sân, bỗng nghe Đức Tiên Chúa gảy tiếng đàn thanh tao, văng vẳng như nhạc quân thiên ở trên Thiên Cung mà ông đã nghe trong lúc mê thiếp theo hai viên lực sĩ ngày trước đó. Lê Thái Ông mới nghĩ rằng, con mình là người ở Thiên cung, thác sinh về nhà mình là nhà trần gian sợ không nuôi được, lấy làm lo cho tương lai của con. Nghĩ thế, liền bàn với Lê Thái Bà rằng, con mình tôi sợ e khó nuôi, chúng ta nên đem gửi cho ông bạn là Trần Công làm nghĩa nữ. Bàn thế, Đức Thái Ông cùng Thái Bà đồng ý, liền đem Đức Tiên Chúa gửi cho Trần Công, thì Đức Trần Công vui lòng nhận Đức Tiên Chúa làm nghĩa nữ.
Nguyên Đức Trần Công là một ông quan hồi hưu, dòng dõi Trần triều, kiều cư vào thôn Vân Cát, là quán của thân mẫu ngài. Sau khi Đức Trần Công đã bằng lòng nhận Đức Tiên Chúa làm nghĩa tử rồi, Đức Thái Ông làm cho Đức Tiên Chúa một cái biệt thự ở sân gần bên vườn hoa, cho Đức Tiên Chúa ra đó ở cho thanh tịnh, cố chăm nom đèn sách.
Không ngờ đó, về thôn Vân Đình cũng thuộc về làng An Thái lại có một nhà lão quan họ Trần không có con, nguyên một đêm kia, nhân khi nhàn hạ, gió mát trăng thanh, mới dạo gót ra vườn hoa chơi, tự nhiên gặp được người con trai ở dưới gốc cây đào, ngài Trần lão quan liền đem vào nuôi mà đặt tên là Đào Lang. Ngài xét thấy Trần Đào Lang thông minh đĩnh ngộ, diện mạo khôi ngô, Ngài liền cho đi học. Vì Trần lão Ông, cùng Trần lão Bà không có con cho nên thương chàng Đào Lang như con, đã hết sức dạy vẽ đủ điều, chẳng bao lâu đã văn hay chữ tốt, tiếng tăm lừng lẫy khắp trấn Sơn Nam.
Đến năm Quý Dậu niên hiệu Gia Thái nguyên niên, triều Vua Lê Thế Tôn (1573), chàng Đào Lang lên hai mươi tuổi, mà Đức Tiên Chúa đúng mười bảy tuổi. Thường ngày Trần lão quan hay qua lại chơi nhà Đức Trần Ông, thấy Tiên Chúa nhan sắc tuyệt vời, thông minh quán chúng, bèn cậy người mối chước tới Lê Thái Ông và Đức Trần Công để cầu hôn cho chàng Đào Lang. Song thân của Đức Tiên Chúa, và Đức Trần Công nghĩ rằng nhà họ Trần lão Ông cũng dòng dõi trâm anh, mà chàng Đào học hành cũng nức tiếng, đã đồng hương, lại cân đối tài sắc nên hai thân của Đức Tiên Chúa cùng dưỡng phụ dưỡng mẫu đều ưng thuận. Nhưng Đức Tiên Chúa một hai không chịu, chỉ muốn thanh tu cho khỏi trần lụy, nhưng Lê Thái Ông, cùng Lê Thái Bà đôi ba lần khuyên giải, và nhất định hứa hôn cho chàng Đào Lang. Tiên Chúa tự nghĩ đã xuống cõi trần, thôi cũng đành tạm kết duyên cho tròn kiếp, nên bất đắc dĩ cũng phải vâng lời cho đẹp lòng hai thân. Đến năm mười tám tuổi, Đức Tiên Chúa bái biệt thân phụ, thân mẫu, cùng dưỡng phụ, dưỡng mẫu để vu quy với chàng.
Khi Đức Tiên Chúa từ giã song thân, trở về cùng với lang quân, cử chỉ trong gia đình rất là nghi lễ, kính thờ, giữ đạo thần hôn, trong họ ngoài làng ai ai thấy đều khâm phục, đáng làm gương cho bạn nữ lưu: đạo đức, lễ nghi, trinh thuần, hiếu nghĩa, không thể tả đặng. Được một năm, Đức Tiên Chúa sinh được một người con trai, đặt tên là Trần Nhâm, mặt vuông tai lớn miệng rộng trán cao, thật là đúng trang hào kiệt. Những khi nhàn hạ, chàng Đào cùng Đức Tiên Chúa xướng họa thi ca, quang cảnh lạc thú trong gia đình ai thấy cũng khen ngợi.
Nhưng… than ôi! Tạo hóa trêu người, ông xanh cắc cớ, không ngờ chưa vui sum hợp đã sầu chia phôi. Đức Tiên Chúa tự nhiên không bệnh mà mất, hưởng linh được hai mươi mốt tuổi, tạ thế ngày mùng ba giờ Dần, tháng ba năm Đinh Sửu, niên hiệu Gia Thái ngũ niên, triều Vua Lê Thế Tôn (1577). Song thân, cùng dưỡng phụ, nhạc phụ đau lòng xiết nỗi thảm thương, làm lễ an táng rất hậu. Mộ Đức Tiên Chúa táng tại cây đa bóng, ở làng An Thái. Kế đó, Đức Lê Thái Ông buồn sầu theo con, rồi lâm bệnh cũng tạ thế, mộ cũng táng tại đó, tọa càn hướng tốn. Triều vua Gia Long thứ tư, đổi xã An Thái làm xã Tiên Hương đến nay vẫn còn đền thờ Đức Tiên Chúa tại đó.
Thánh Mẫu giáng sinh lần thứ ba (1609-1610)
Nguyên trước Đức Tiên Chúa giáng sinh lần thứ hai, hưởng thọ đặng hai mươi mốt năm (21 tuổi), vừa tạ thế. Khi lên chầu Đế Đình, thường thường Đức Tiên Chúa cứ sầu phiền sự trần duyên chưa mãn. Đức Thượng Đế sắc phong “Liễu Hạnh Công Chúa”, cho phép trắc giáng phi thường, tiêu diêu tự thích, Đức Tiên Chúa vâng mệnh lệnh về thẳng quê hương, hiện thân thăm tứ thân phụ mẫu, và lang quân, tử tức, cùng huynh đệ. Chính là năm Kỷ ão, niên hiệu Quang Hưng nhị niên triều vua Lê Thế Tôn (1579). Đức Tiên Chúa hiển thân về thăm quê hương hai lần, rồi Đức Tiên Chúa vân du thiên hạ, khi ẩn khi hiện phi thường, lúc ngoạn cảnh danh lam, khi tiêu diêu bồng đảo. Về sau chàng Đào tái sinh lại tức là Mai Sinh. Năm Kỷ Dậu, niên hiệu Hoàng Định thập niên, triều vua Lê Kính Tôn (1609), bấy giờ chàng Mai được hai mươi tuổi, Đức Tiên Chúa mới giáng hiện để tái hợp với chàng Mai Sinh. Đức Tiên Chúa qua Sòng Sơn tỉnh Thanh Hóa, có một dãy núi toàn là cây đào xanh tốt dưới lại có một hòn đá vuông bằng phẳng, Đức Tiên Chúa mới lấy cành lá quét sạch ngồi chơi, trông xem bốn bể cảnh trí thiên nhiên không khác đào nguyên tiên cảnh, nhưng hiềm một nỗi vắng khách tri âm, biết cùng ai ngâm thơ vịnh phú. Đức Tiên Chúa lại gần bên khe nước ném hoa rụng mà chơi, bỗng thấy gã thư sinh, hình dung tuấn tú, cốt cách phi phàm thẳng đường Tây Mỗ đi tới, Đức Tiên Chúa biết đích là Đức lang quân tái sinh mới đứng đường xa bảo rằng: “Tôi nhân đi chơi hội, vì quá vui chân bước tới đây, bây giờ quên cả lối về, may gặp quý khách qua đường, xin mang ơn chỉ giúp”.
Gã thư sinh kia ngỡ là con gái giang hồ, không bằng lòng nên giả cách không nghe, rồi cứ rảo bước đi thẳng. Nguyên gã thư sinh đó chính là chàng Đào Lang thủa trước nhân vì sầu uất cho nên lại tái sinh lần nữa, lần này tái sinh nhà họ Mai làng Tây Mỗ, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Chàng Mai Sinh tuổi mới hai mươi, chí khí khác thường, thông minh quán thế, song thân đều qua đời hết, anh em không có, nhà cửa lại nghèo, vợ con chưa có, ngày đó đi học về. Không ngờ lại gặp Đức Tiên Chúa, tính ngài nghiêm chỉnh ghét sự nguyệt hoa, vả lại ngài không nhớ kiếp tiền sinh của ngài nên mới cự tuyệt.
Ngày bữa sau, chàng Mai Sinh đi học lại đi ngang qua chỗ đó, thấy có một mảnh giấy dán ở cây đào trong có bài thơ vịnh cây đào rằng:
Diệm chất thiên nhiên bất giả tài
Phương tâm trinh thù kỷ niên lai
Khi dung trần tục đằng nhàn kiến
Trực đãi xuân quân thứ đệ khai
Tố nữ tương tri trường ngã chiếu
Phong di truyền tín vị thùy môi
Tảo tri lưu thủy vô tình luyến
Mạc tử phi hồng trục khách bôi
Dịch nghĩa:
Vóc đẹp trời sinh há sửa bày
Lòng thơm gìn giữ mấy năm nay
Dễ dàng mắt tục bao giờ thấy
Lần lượt mùi hoa đợi gió bay
Bóng nguyệt quen nhau sai đỏ mãi
Tình xuân đưa mối đợi ai rày
Sớm hay dòng nước tình xao lãng
Nỡ để hồng rơi dục khách say.
Chàng Mai Sinh xem bài thơ xong khen rằng “thật là tài nhả ngọc phun châu, không ngờ giữa trần thế ở đây lại có tiểu thư nào tài tình đến thế, thật là đáng phục”. Khi đó chàng Mai Sinh liền họa một bài thơ rằng:
Tạc kiến giao trì điện ngoại tài
Như hà Tiên chủng lạc trần lai
Mảng tiền phàm thảo nhàn vô ngữ
Độc bạn u lang không tự khai
Huyền quảng phong quang ung thủ tiếu
Chân môn cuồng đảng cảm thông môi
Tương phùng lâm hạ tăng trù trướng
Dục túy là phù nhất tửu bôi.
Dịch nghĩa:
Liếc mắt đền giao trước sẵn bày
Dòng Tiên lưu lạc tới gì đây
Chán trông ngọn cỏ thầm nín
Riêng với mùi lang thoang thoảng bay
Đàn sáo xôn xao cười những thế
Bướm ong lơi lả dám đầu rày
Dưới rừng gặp gỡ càng vơ vẩn
Một chén non thần đã muốn say
Chàng Mai Sinh đề thơ xong, muốn đi tìm tiểu thư nhưng sợ đường đột quá, vả chăng bữa trước thì làm cao, nay đi chỗ này chỗ khác mà tìm cũng bất nhã, nên phải nén lòng mà về. Lúc bấy giờ trời mưa dầm ngót đã mấy ngày, lòng càng áy náy, chàng Mai Sinh liền làm luôn một bài thơ nữa cho thỏa tình khát vọng.
Ngâm rằng:
Tài hà giai, tình hà hảo nhất phiến tài tình khiêu khách nào, khách nào kỷ thời hưu tương tầm bất phạ giao. Phong nhất hởi, vũ nhất chí, vu ta chỉ xích thành thiên lý, vũ bá phong đi nhất bạc tình, xuân sầu tịch mịch hộ thường khuýnh kỷ hồi mộng nhiễm đào nguyên lý, dục bả thiên kim mãi nhất tỉnh.
Dịch nghĩa:
Tài kia giỏi tình này hay, tài tình trêu người chi lắm nỗi, trêu nhau thế thế à, tìm nhau chẳng ngại xa, cơn mưa dầm cơn gió bấc hỡi ôi! gang tấc xa thăm thẳm, dì gió anh mưa tệ lắm thay. Buồn xuân vắng vẻ chốt thoan này, Nguồn đào xa thẳm chừng bao nhỉ? Mưa tạnh nghìn vàng cũng muốn ngay.
Cách hôm sau mưa hòa gió tạnh, trời đất quang minh, chàng Mai Sinh đi ra vẫn tưởng bài thơ chàng đề bữa trước bị mưa phai lợt, chẳng biết tiểu thư đã đọc đến cho chăng. Khi chàng đến nơi xem, thì hoa đào tươi thắm, như lúc chưa mưa, bài thơ nét mực như y, mà người ngọc bây giờ không thấy, chàng Mai Sinh lại đem thơ trước họa lại thêm một bài nữa rằng:
Vạn chủng tương tư trần nhất tài
Tấm phương nhẫn phụ thử phiêu lai
Sổ hàng cẩm tự nhân như tại
Nhất trận xuân phong họa chính khai
Thủy cổ trùng mông, quân hữu ý
Khiêu kỳ thắc hận ngã vô môi
Vu ta kỳ ngộ thành ô hữu
Sầu hải mang mang tiếp độ bôi.
Dịch nghĩa:
Trăm mối sầu riêng những rỗi bày
Một phen nỡ phụ tới tìm đây
Người in chữ gấm đôi hàng mới
Hoa bán mùi xuân một trận bay
Dạ ngọc ân cần khen đó cũng
Tin sương ngơ ngác giận ta rày,
Than ôi! gặp gỡ còn đâu thấy
Man mác bể sầu mượn chén say
Chàng Mai Sinh họa bài thơ vừa xong, bỗng nghe trong rừng có tiếng chào hỏi. Chàng Mai Sinh ngoảnh ra xem, thấy Đức Tiên Chúa, khôn xiết nỗi mừng, liền đến trước thi lễ mà thưa rằng: “Ngày trước được mong ân Đức Tiên Chúa có lòng hỏi đến, bần sinh này lấy làm cảm tạ. Nhưng mắt trần không biết, dạ tục rất ngây, hồi tỉnh lại lúc đầu gặp gỡ, thư sinh mong ân chẳng xiết. Không ngờ hôm nay Tiên nữ còn đoái tưởng đến hàn nho mà cho tái ngộ, không biết quả phúc thế nào nay được như vậy”.
Đức Tiên Chúa mời chàng Mai Sinh ngồi trên một tảng đá trắng, bằng phẳng như bức ghế cẩm thạch, chàng Mai Sinh ngồi đoan toạ, Đức Tiên Chúa quỳ xuống thưa rằng: “Thiếp cũng con nhà khuê các, ở nơi cạnh huyện này, song thân đều tạ thế, nhà cửa tiêu điều, không được bằng ai, nên phải lánh chốn phồn hoa, vào nơi lâm tuyền tịch mịch, may nay thiếp gặp người kiệt sĩ chân nho, nên tỏ ý giao cầu, nếu chàng không ngại gần xa, cho thiếp kết nghĩa trăm năm thế là ba sinh hương lửa”.
Chàng Mai Sinh nghe thấy bấy nhiêu lời trân trọng, đính ước trăm năm, rất là cảm tình. Liền nói lại với Đức Tiên Chúa rằng: “Đa tạ Tiên Nữ có lòng hạ cố, chẳng phụ kẻ hàn nho, nhưng song thân tôi đều mất sớm, anh em chẳng có, nhà cửa lại sơ sài thanh đạm, chỉ một mình theo việc bút nghiên. Nương thân cửa Khổng, bây giờ Tiên Nữ đã có lòng đoái tưởng, tôi đâu dám phụ lòng. Nhưng xin Tiên Nữ miễn chấp cho tôi sẽ liệu bề mai mối”.
Khi đó Đức Tiên Chúa nghiêm nét mặt mà thưa rằng: “Hai bên song thân quá cố, họ hàng thân thích đều không, biết lấy ai mà cậy người mai mối.”
Thế đôi bên “Thiết bán bái yết Thiên Đình để xin kết duyên cầm sắt”.
Đức Tiên Chúa thưa xong bấy nhiêu lời, kể vịnh một bài như sau:
Thơ rằng
Thiên thọ đào hoa hậu độ tài
Lưu lang hà hạnh hữu trùng lai
Bách niên duyên trái hoàng thiên thập
Vạn hộc u sầu tận bãi ???
Thuỳ vị xích thằng đồ lãng ngữ
Ưng tri hồng diệp thị lương môi
Cao châm tự cổ đa tiền định
Mạo oán Thiên Đình truỵ ngọc bôi
Dịch nghĩa:
Mấy cụm đào hoa vắn lạ bày
Chàng Lưu nay lại trở về đây
Trăm năm duyên nợ đành xong hẳn
Muôn hộc u sầu cũng xoá bay
Duyên bén tơ hồng ai bảo chẳng
Mối đưa lá thắm bấy lâu nay
Cảo chấm định trước từ xưa vậy
Chờ oán sân trời vỡ chén say.
Chàng Mai Sinh nghe đến câu kết, mới hỏi nghĩa làm sao có chữ “Thiên Đình” với chữ “ngọc bôi”. Đức Tiên Chúa thưa lại rằng, việc này sau sẽ biết, bây giờ tôi không dám thưa rõ, chàng Mai Sinh nghe vậy không dám hỏi nữa, liền theo nguyên vận họa lại, thơ rằng:
Làm ngọc hà duyên, cảm chủng tài
Hỷ phùng giai ngẫu tự thiên lai
Tích niên thu giạ ngân kiều cách
Kim nhật xuân viên ngọc toản khai
Xương thế tảo phùng phi phụng bộc
Ngự băng bát giả lịnh cô môi
Hàn nho giao bào tương hà nhi
Nguyện bả tân thi tạ nhất bôi
Dịch nghĩa:
Lam ngọc duyên đầu, dám chắc mà
Lứa đôi may gặp tự trời cho
Xưa cầu ngân hán còn ngăn lại
Nay khoá vườn xuân đã mở ra
Bói hộp điềm lành, tin phủ đỏ
Vắn đưa lời mối mặc ta hồ
Lấy gì tỏ giải lòng cho được
Xin mượn tơ tình tạ chén say.
Đoạn Đức Tiên Chúa với chàng Mai Sinh, hai ngài chỉ non thề ước, lạy tạ cao xanh. Bây giờ hai ngài mới kết duyên cầm sắc, một nhà sum họp, khi ăn nói lúc lễ nghi, xem trông âu yếm đều cùng kính yêu. Lúc bấy giờ chàng Mai Sinh đã phối hợp được vợ đã phong tư diễm thế, sắc tướng nghiêm trang, rồi từ đó về sau cầm sắc hoá mình, khuê phòng lạc thú, cho nên có ý xao lãng sự học hành, không được chuyên cần như trước nữa. Đức Tiên Chúa thấy thế không bằng lòng. Một hôm Đức Tiên Chúa dệt vải đã khuya mà vẫn cứ dệt để chờ Đức Mai Sinh đi chơi về, Đức Tiên Chúa mới lấy rượu ra ngồi đối ẩm. Đức Mai Sinh vô tình không biết Đức Tiên Chúa không bằng lòng nên mới bảo Tiên Chúa rằng: “Đêm nay trăng thu vằng vặc, cảnh sắc xinh tươi, trên trời nhị thập bát tú phân minh, Đức Tiên Chúa có nhớ ở chốn Thiên Tinh chăng nhỉ”
Đức Tiên Chúa nghe Đức Mai Sinh nói đến nhị thập bát tú, nên nhân đó lấy hai mươi tám vị sao làm một bài thơ khuyên phu quân.
Thơ rằng:
Nữ nhan thuỳ vị viễn thơ phong
Tất bả nguỵ tâm định chủ trương
Lân chẩn thất hư phân bích diệm
Nguyệt đê mảo giác tá lâu quang
Liễu văn tinh bính tu sâm cứu
Cơ truyện ngưu mao ý tinh tường
Thuỷ thổ khuê hàm tranh quỷ đẩu
Vũ môn nhực vỉ sầu dương cang.
Dịch nghĩa:
Nữ nhan sắc có ở thơ phòng
Giữ vững lòng siêng để chủ trương
Bên xóm đèn giong tia rọi đến
Góc lầu trăng xế bóng soi ngang
Thể văn ông Liễu nên xem kỹ
Lối truyện chàng Cơ phải xét tường
Mở miệng thơ hay tranh giải nhất
Vũ môn vùng vẫy chí thêm hăng.
Đức Mai Sinh nghe thơ biết là Đức Tiên Chúa làm thơ đó có ý khuyên mình chăm học, nên họa lại một bài văn cũng dùng hai mươi tám vị sao.
Thơ rằng:
Thôn ngưu quật tinh chí phương cang
Cơ thụ sâm truyền dĩ tất tường
Đẩu thất bích để kinh quy đởm
Nguy lâu khuê vịnh động tinh quang
Giác tài thùy vị để đường Liễu
Nhựt mảo đa tâm vi hán trương
Tố nữ thanh hư ưng chẩn ngả
Quế chi nguyệt chủy tống văn phòng.
Dịch nghĩa;
Nuốt trâu đào giếng chí đương hăng
Kinh truyện Cơ, Sâm đã biết tường
Chữ vách đề xong hồn quỷ khiếp
Thơ lầu ngâm đoạn bóng sao ngang
Thi tài ai bảo thua ông Liễu
Giúp sức ta nào kém họ Trương
Ả Tố sẵn lòng thương ta nhỉ
Thì đem cành quế tới văn phòng.
Đức Tiên Chúa nghe Đức Mai Sinh họa thơ xong, liền nói rằng: “Kẻ nho nhã học cho cách vật tri tri thông kim bát cổ để ra thi thố với đời, lập nên sự nghiệp. Còn như học lấy văn chương phù phiếm vịnh phú ngâm thơ chẳng sai lắm ru, xin phu quân tỉnh ngộ.”
Đức Mai Sinh hai ba lần tạ lỗi nói rằng: “Tôi sức hèn tài mọn, đãng trí phóng tâm may nhờ hiền thê nhắc nhủ.”
Đức Tiên Chúa nghe nói biết là đức lang quân hối quá lấy làm vui mừng nên lại chuyện trò xướng họa cùng nhau đến khi trăng lặn mới nghỉ.
Được hơn một năm, Đức Tiên Chúa sinh được một người con trai đặt tên Mai Cổn thông minh đĩnh ngộ, diện mạo khôi ngô, thế gian ít có. Sang năm sau Đức Mai Sinh đi thi đậu cả Hương và Hội, sung vào Hàn Lâm Viện rồi bổ ra làm quan. Tính ngài giản dị cho nên công việc cũng rảnh rang, thường thường cùng Đức Tiên Chúa uống rượu ngâm thơ, bên xướng bên họa, như gấm dệt như hoa thêu.
Cảnh lạc thú trong gia đình Đức Tiên Chúa diễn ra như thế, được gần một năm thì hết. Một hôm về cuối mùa đông, khí trời rét mướt, Đức Mai Sinh cùng Đức Tiên Chúa ngồi đối diện bên cạnh lò lửa chuyện trò rất là tri kỷ, ân nghĩa mặn nồng, thật là tâm đầu ý hợp.
Đột nhiên, nước mắt Đức Tiên Chúa chảy xuống như mưa, bực tức nghẹn lời nói không ra tiếng. Đức Mai Sinh lấy làm ngạc nhiên hỏi cớ làm sao, Đức Tiên Chúa thưa rằng:
“Thiếp ây là Thiên Đình đế nữ, chỉ vì lỡ tay rơi chén ngọc, nên phải tạm trích xuống trần. Thiếp đã cùng phu quân tác hợp một kiếp trước rồi, nhưng trần duyên chưa mãn, kiếp này lại tái hợp lần nữa. Nay trích kỳ đã hết Thiếp phải phụng mạng về trời.
Nhưng thảm thay… thiếp nghĩ đến phu quân gối chiếc chăn đơn, khuya sớm không ai hầu hạ, nghĩ đến con thơ đầu xanh tuổi trẻ ngày đêm ai kẻ bế bồng, thì lòng thiếp không nguôi cơn giận, khó nỗi khuây sầu.
Thôi … nhưng… mà … ly hợp bởi trời, hoan bi thường sự, bây giờ dẫu phiền sầu cho ra tóc bạc, mà khóc cho chảy máu đào, cũng là vô ích.
Vậy thiếp kính lạy phu quân, xin phu quân đừng quá thương tâm mà không giữ nổi mình vàng vóc ngọc.
Huống chi con còn măng sữa, anh em chẳng có một ai, bây giờ thiếp phải về chầu Thiên Cung, chỉ có một mình phu quân khi đau ốm, lúc sầu phiền lấy ai là người giúp đỡ, xin phu quân nghĩ lại, thiếp cũng biết sinh ly tử biệt, thê thảm nhường nào kể sao cho xiết, thử cảnh thử tình để cho phu quân trăm bề thống khổ, lòng thiếp thê thảm trăm đường cũng như phu quân vậy”.
Đức Mai Sinh nghe nói, mất vía hồn kinh, chân tay rời rã, rồi nói rằng:
“Tiên trần xa cách, may được kết duyên nghĩa vợ chồng, lẽ nào mà quên được. Ôi sao mà dễ hợp dễ ly như thế.”
Đức Tiên Chúa thưa rằng:
“Thiếp thờ phu quân đã bao nhiêu nay, xin phu quân lượng xét, thiếp không phải ham nơi bồng đảo mà quên nghĩa tào khang, nhưng kỳ hạn quy tiên đã bức cận, thế không lưu lại được nữa”
Đức Mai Sinh nghe Đức Tiên Chúa nói dứt lời thì Đức Mai Sinh lấy làm kinh hoàng nức nở khóc không nói phô gì được nữa. Đến cuối canh ba khi giờ sửu, Đức Tiên Chúa bồng con đến trước mặt Đức Mai Sinh, Đức Tiên Chúa khuyên giải một hồi rồi cúi xuống lạy Đức Mai Sinh hai lạy để xin từ biệt; lạy rồi cầm lấy tay Đức Mai Sinh khóc nức nở, tình cảnh thê thảm, Đức Tiên Chúa hết sức đau lòng. Bỗng nghe có tiếng xe loan đã đến gần trước thềm nhà, Đức Tiên Chúa lại phải giải ít lời nữa rồi bồng con trao lại cho Đức Mai Sinh. Đức Tiên Chúa quá đau đớn nắm tay Đức Mai Sinh và tay con một cách thê thảm vô hạn, kế lạy Đức Mai Sinh mà bái biệt. Đức Mai Sinh muốn níu lấy vạt áo nhưng chỉ thấy ánh hào quang rực rỡ, thơm ngát cả nhà, Đức Tiên Chúa không còn ở đó nữa. Đức Mai Sinh xót ruột đau lòng quá, bổ nhào xuống đất ngất đi một hồi mới tỉnh. Thế là Đức Tiên Chúa bái biệt Đức Mai Sinh, khi đó hóa ra đạo hào quang sáng rực mà đằng không nhi thượng cả chân hình, lúc đó vào năm Canh Tuất, niên hiệu Hoàng Định thập nhất niên, triều vua Lê Kính Tôn (1610). Từ đó trở đi Đức Mai Sinh ngày đêm rầu rĩ, chiều sớm nhớ thương, rượu không uống, thơ không ngâm, việc quan phế trễ. Thường thường than rằng: “Phàm người ta đi học ra làm quan, trên là vì nước, dưới vì nhà, như ta đây đã không có tài kinh bang tế thế, và trên không có cha mẹ, dưới không có vợ và anh em, lại đeo lấy cái lụy đọc túc cô phòng, thế là có phải vì sự ăn mặc hay sao mà còn đeo vào vòng danh lợi”. Nghĩ vậy rồi dâng sớ xin về hưu, về làm một cái nhà giữa rừng đào khi xưa đã gặp Đức Tiên Chúa để dạy con thành tài, trọn đời ở vậy.
Thông tính khi giáng khi thăng sau lần thứ ba
Tính từ khi Đức Tiên Chúa giáng hiện lần thứ ba tại Sòng Sơn ở tỉnh Thanh Hóa, tái phối với Đức Mai Sinh là tháng hai năm Kỷ Dậu, niên hiệu Hoàng Định thập niên, triều vua Lê Kính Tôn (1609). Cho đến khi Đức Tiên Chúa bái biệt Đức Mai Sinh mà lên Tiên Cung là hạ tuần tháng chạp năm Canh Tuất, niên hiệu Hoàng Định thập nhất niên, triều vua Lê Kính Tôn (1610). Thế là lần thứ ba Đức Tiên Chúa giáng sinh tái phối hợp với Đức Mai Sinh được hơn một năm rồi quy đế hương.
Nói về phần Đức Tiên Chúa khi lên Linh Tiêu, tâu với Đức Thượng Đế rằng: “Cái án trích giáng trần của con nay đã hết hạn nhưng con nhớ nghĩa ba sinh, tình duyên chưa đoạn, cúi đầu lạy xin phụ hoàng ban cho đặc ân trắc giáng bất thường để được vãng lai trần giới”. Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế xét thấy hai lần Đức Tiên Chúa bị tình duyên lỡ dở nghĩ cũng thương tình nên chuẩn tấu. Rồi đòi nhị vị Tiên Nương một vị em dâu Đức Tiên Chúa, một vị cháu Đức Tiên Chúa[1], rồi ngài phán rằng: “Phen này Quỳnh Hoa (tên Đức Mẫu) xuống trần tất có sự, hay bây giờ ta cho hai Nương đi theo để giáng phúc cho dân”. Đức Tiên Chúa và hai vị Tiên Nương đó đều lạy tạ ân đức Thượng Đế rồi đằng không xuống.
Đức Tiên Chúa và hai vị Tiên Nương hiển thánh
Phố Cát tỉnh Thanh Hóa chỗ đó rừng xanh cây tốt cảnh trí thiên nhiên, ba Ngài mới hiển linh ở đó, dân thôn kinh sợ bèn thiết lập đền thờ. Khoảng năm Ất Hợi, niên hiệu Dương Hóa thứ nhất, triều vua Lê Thần Tôn (1635), khách bộ hành đi qua lại trước đền thờ đó không có lễ phép và không xuống ngựa xuống võng đều bị ba ngài khiển trách chết không biết mấy. Lúc đó triều đình ngỡ là yêu quái, sắc minh cho ông Trịnh Hoàng Phúc đem một đạo binh tới đó trừ yểm. Trịnh Hoàng Phúc cũng sợ khó lòng làm nổi nên mời một ông thầy phù thủy có danh tiếng trong nước vào đó họa phù yểm trước rồi mới cử binh đi sau. Thầy phù thủy cùng bốn người đạo tràng vừa vào đến Đèo Ngang (gần hạt Phố Cát) thì gặp một bà già chống gậy trúc đi lom khom bên đường, thầy phù thủy hỏi rằng: “Thưa bà nghe nói ở đây có một con yêu tinh thường hay quấy nhiễu nhân gian lắm phải không?”
Bà lão đáp rằng: “Phải, nhưng ông hỏi làm gì”
Thầy phù thủy nói: “Tôi là Pháp sư ra đây để trừ yểm con yêu tinh đó cho dân gian khỏi bị tai hại vì tay nó nữa”.
Bà lão lại cười: “Chớ, ông phải coi chừng với con yêu tinh đó nó cao phép lắm, chưa chắc ông trừ được nó lại nguy hiểm đến tánh mạng nữa, tôi khuyên ông về thì hơn.”
Pháp sư nói: “Bà lão không phải lo gì, chuyến này nó sẽ biết tay tôi”.
Bà lão nói “Pháp sư ơi, con yêu tinh đó kia kìa, chính nó đã hiện ra cô gái đẹp đang đi lại đó, ông phải lo mà chạy kẻo khốn”.
Bà lão vừa nói vừa chỉ tay ra đằng xa, Pháp sư ngó theo không thấy gì cả đến khi ngoảnh lại để hỏi bà lão, thì không thấy bà lão đâu, chỉ thấy một cô gái thật đẹp ngó Pháp Sư mà cười một cách rất kiêu ngạo. Pháp sư nổi giận nói: “À mày dám hỗn với tao à”, nói xong niệm chú bắt quyết liên thiên mà cô gái vẫn cứ ung dung đứng cười như trước. Pháp sư càng ấn quyết thì cô gái lại càng cười thêm, Pháp sư tức giận quá rút thanh gươm ra chém, cô gái đó cứ từ từ đi thụt lùi. Pháp sư chạy theo hết sức cũng không kịp, chỉ cách nhau vài thước mà thôi, Pháp sư cố gắng hết sức bình sinh chạy đuổi cho kịp, không ngờ khi lại gần đến nơi thì vấp phải hòn đá chẹn ngang đường ngã lăn xuống đó sặc máu chết tươi còn cô gái thì biến mất.
Mấy người đạo tràng đi theo Pháp sư thấy vậy kinh hoàng, liền về bẩm với Trịnh Hoàng Phúc. Khi đó Trịnh Hoàng Phúc trong lòng bối rối, tiến thoái lưỡng nan, tính đi thì sợ Đức Tiên Chúa làm chết, còn về e triều đình bắt tội. Sau khi đã tam tư tái tư rồi, ông quyết lòng đi vì trước để khỏi trái vương mệnh, mà sau khỏi bị nhục với triều đình, dẫu có chết cũng vinh. Nghĩ vậy nên quyết chí cử binh đi. Kh đi đường đến gần Đèo Ngang thấy xác Pháp sư còn nằm ở đó, chẳng có hòn đá nào nằm chắn đường cả, quân lính thấy thế lấy làm kinh hoàng lắm. Khi đạo quân đi đến Phố Cát thì Trịnh Hoàng Phúc ra lệnh đốt phá đền miếu. Tức thì tên bắn mù trời, sấm vang dậy đất, non sông biến sắc, cầm thú kinh hoàng. Trong chốc lát tòa đền ra tro, không còn một mảy may gì cả. Đốt đền xong Trịnh Hoàng Phúc và quân lính vẫn bình yên vô sự.
Cách vài tháng sau, cả hạt đó mắc chứng ôn dịch, người và súc vật chết không biết mấy. Dân thôn mới lập đàn cầu đảo, khi đó đột nhiên có một người nhập đồng nhảy lên hương án bảo rằng: “Ta đây là Liễu Hạnh Công Chúa giáng ứng linh đồng bảo cho các người biết chúng người phải tấu với triều đình sửa lại đền miếu, hương hỏa phụng tự, nếu không nghe lời, chúng người còn bị hại nữa”
Trong dân thôn có người hỏi: “Tâu Công Chúa, như Ngài quả thật linh ứng, sao ông Trịnh Hoàng Phúc đem binh ra đốt phá đền Ngài, Ngài lại không làm hại, còn như chúng con không có tội gì, Ngài lại trách phạt là nghĩa làm sao?”
Người đó vẫn đứng trên hương án nói:
“Ta không phải là không thiêng, mà cũng không phải sợ gì Trịnh Hoàng Phúc, nhưng ta không muốn làm chết ai. Là vì Trịnh Hoàng Phúc phụng vương mệnh mà phá miếu đền, chứ không phải lòng nó muốn thế. Như ta giết nó, ta mang tiếng chống vua, nên ta không muốn giết, còn quân lính thì theo quân lệnh mà làm chứ cũng có dám ngạo mạn gì mà trị tội cho đành.
Còn chúng người tuy không đốt phá nhưng vì quá ngu xuẩn. Há bấy lâu nay lại không biết chị em ta hiển ứng ở đây sao? Lại còn ngờ là yêu quái để đến nỗi triều đình phải sai quan quân ra đốt phá đền ta, cho ta mang lấy tiếng, bởi thế ta mới trị tội các ngươi vì lẽ đó.”
Người đó nói xong thì bổ ngửa xuống đất một hồi mới tỉnh (người đứng trên hương án truyền đó tức là Đức Tiên Chúa giáng đồng vào người đó)
Lúc bấy giờ dân thôn vâng lời cử mấy ông hương lão tới cửa đế đô để tâu bầy lai lịch sự linh ứng của Đức Tiên Chúa. Vua mới sắc hạ cho sửa đền miếu lại rất là nguy nga tráng lệ. Ngài sắc phong Đức Tiên Chúa: “Mã Vàng Công Chúa, Thượng Đẳng Tối Linh Tôn Thần”. Sắc phong tại năm Ất Hợi, triều vua Lê Thần Tôn, Dương Hòa nguyên niên (1635). Từ đó phương dân nhờ phép Đức Tiên Chúa gia hộ lại được yên tịnh như thường, ai có cầu đảo việc gì thảy đều linh ứng.
Đức Tiên Chúa hiển ứng, vua Lê Thần Tôn sắc phong Thượng Đẳng Thần
Đến năm Nhâm Ngọ niên hiệu Dương Hòa thứ tám (1642), về tiết thanh minh, vua Lê Thần Tôn lập ra một hội thi Bách Thần Thượng Đẳng, để cho biết sự linh hiển của các vị Thần Tiên.
Trước một tháng, lệnh truyền ra khắp trong nước, thỉnh Bách Thần Thượng Đẳng hội tại Điện Kiến Trung dự thi. Đến bữa thi, vua Lê Thần Tôn ngự trên ngai vàng để giám sát hai bên linh cẩn tín, và thị vệ mang gươm cầm kiếm đứng chầu ngoài sân rồng, ở chính giữa đặt một dãy hương án để cho Bách Thần tựu hội; có đủ lọng vàng tán tía, bửu kiếm long đao, hương thắp đèn chong, trầm hương ngào ngạt. Hai bên sân, văn võ bá quan áo mão cân đai đứng chầu để thị hành khảo thí trông rất là oai nghi lẫm liệt.
Đến giờ thi, vua truyền nhắc ra hai con trâu một con đen, một con trắng và phán rằng: “Hễ nghe dứt một hồi chiêng và trống vị thần nào làm chết được hai con trâu là trúng tuyển”
Đoạn rồi lần lượt xướng danh hiệu vị Thần nào thì đánh một hồi chiêng trống xong mà hai con trâu không chết thì lại xướng qua danh hiệu vị Thần khác. Từ giờ mão cho đến giờ tỵ mà chưa có vị Thần nào trúng tuyển, vị thì chưa vật đổ được con nào, vị thì mới đổ được một con mà trống chiêng đã hồi.
Đến lần xướng đến danh hiệu Đức Tiên Chúa thì thấy tự nhiên gió thổi mưa sa, sấm vang chớp giật, mù trời mịt đất, vừa dứt hồi chiêng, hai con trâu nằm lăn ra chết, đầy mình hai con trâu hơn vài trăm dấu vằm chém. Vua phê Đức Tiên Chúa trúng tuyển Giải Nguyên. Tức thì trời quang mây tạnh, hai con trâu lại được phước sanh như trước. Vua và bá quan ai cũng lấy làm kinh dị. Sau vua lại truyền cho tung lên một cây lụa điều phán rằng làm thành năm cái áo đưa xuống. Đức Tiên Chúa làm như lời. Vua nhận lấy năm cái áo đưa xuống, rồi vua lại truyền tung năm cái áo lên hẹn kết thành cây lụa đưa xuống, thì Đức Tiên Chúa cũng làm hoàn thành cây lụa đưa xuống, Vua nhận xem cây lụa như xưa rất là kinh dị.
Vua khen ngợi Đức Tiên Chúa rất là anh linh hiển ứng nên kinh phục. Tức thì Vua phong cho Đức Tiên Chúa là: “Thượng Thượng Thượng Đẳng Tối Linh, Vị Bách Thần Chi Thủ”.
Đức Tiên Chúa liền cho hiện ra giữa không trung một bức tường vân ngũ sắc như bức hoành thủ quyển đề bốn chữ địa tự: “Thánh thọ vô cương”. Dưới đề sáu chữ nhỏ: “Tiên Chúa mạ vàng kính tạ”. Vua và văn võ triều đình ai ai cũng trông thấy bức mây cứ đứng lưng chừng trước cửa Ngọ Môn hơn ba giờ mới tan, thần dân ai ai cũng kính phục, và khen ngợi tán dương sự linh ứng của Đức Tiên Chúa không thể tả cho hết được.
Người đời tôn xưng Đức Tiên Chúa là Thánh Mẫu từ đây
Sau đến đời Vua Lê Huyền Tôn niên hiệu Cảnh Trị có bọn mọi Xiêm làm loạn. Vua sai Quận Công là ông Phan Văn Phái đi tiễu trừ, nhưng thế giặc hùng dũng quá khó nỗi phá tan được. Ông Phan Văn Phái khi cử binh đi đến đèo Ngang (thuộc hạt Ninh Bình), ghé vào Phố Cát, đền thờ Đức Tiên Chúa, làm lễ tham yết mật nguyện âm phò mạc hựu rồi mới xuất quân. Khi ông Phan Văn Phái kéo quân đến mặt trận, lúc giao phong thì đột nhiên thấy ù ù sấm chớp gió cuốn cát bay nghe tiếng hò hét trên không trung rất là dữ dội. Ngài và quân lính lấy làm kinh hoàng, tuy vậy nhưng tự nghiệm biết đích rằng mình có cầu nguyện với Đức Tiên Chúa giúp sức nên truyền quân tấn công. Mới tấn công giây phút mà quả nhiên đã phá tan quân giặc. Bấy giờ ông Phan Văn Phái bảo với quân lính rằng, chúng ta không tài giỏi gì, đây là toàn nhờ Thần oai lực của Đức Tiên Chúa đánh tan quân giặc này. Lúc đó ông Phan Văn Phái với quân tướng đều cảm phục và vọng không bái tạ ơn Đức Tiên Chúa rồi kéo quân khải hoàn. Khi về đến kinh đô liền tâu chuyện mình vào đền Phố Cát cầu nguyện Đức Tiên Chúa với triều đình và kể rõ lại khi xuất trận và oai linh của Đức Tiên Chúa hiển hiện phá tan quân giặc thế nào, để triều đình nghe rõ.
Vua Lê Huyền Tôn nhớ tới công Đức Tiên Chúa “Hộ quốc binh nhung” liền hạ chiếu gia phong: “Chế Thắng Bảo Hòa Diệu Đại Vương”. Và sắc phong cho ba tổng sở tại đó khỏi phải nộp sưu thuế đăng lính để phụng sự muôn thu. Từ đó về sau linh ứng dị thường, ai cầu gì được nấy, cho nên người đời cảm cái công đức to lớn mới gọi Đức Tiên Chúa là Thánh Mẫu.
Lúc bấy giờ đền Phố Cát là nơi anh linh hiển ứng, quan thân sĩ thứ và am nữ đính hương lễ bái liên lạc không ngớt. Vậy nên đền Phố Cát càng lâu càng huy hoàng tráng lệ. Đến hiện bây giờ lại càng tăng quảng miếu điện thêm, nhưng dấu tích tự triều Lê Thần Tôn sáng lập vẫn còn y cựu, sau phương dân chỉ trùng tu. Đền Phố Cát thuộc về huyện Thạch Thành ở Thanh Hóa ngang qua núi Triệu Tường đi lên. Ngôi đền ở giữa quả núi như hòn non bộ chung quanh, rừng rậm suối trong. Trước tòa đền có một cái suối sâu chảy bao quanh ở trước thông ra đền Rồng. Trước đền, ở dưới suối có thứ cá như là cá gáy (cá chép) miệng đỏ, đuôi như hoa sen, nhiều lắm, độ hơn vài ngàn con. Cá đó gọi là cá Thần, chầu trước đền, không đi đâu mà chẳng ai dám bắt. Một sự cá đó cũng làm linh dị. Trong lúc đó Đức Thánh Mẫu lại hiển tích ở núi Sòng Sơn cũng thuộc về Thanh Hóa rồi dân thôn lại lập lên ngôi đền nữa rất là tráng lệ đến bây giờ vẫn tăng huy hơn. Đền đó gọi là đền Sòng. Rồi kế đến đền Dâu và đền Rồng, Đức Thánh Mẫu giáng linh tại hai ngôi đền đó rất là hiển ứng đến hiện bây giờ linh lại càng linh.
Từ đó về sau, khôn nghi đại trứ viễn chấn linh thanh, nên cả xứ Bắc kỳ gia gia phụng tự, xứ xứ lập từ, nhân dân thờ tự Đức Thánh Mẫu rất là kính thành, đã cảm công đức Ngài mà lại kính thương Ngài như là con thương mẹ đẻ. Vì Ngài đã chí hiếu, lại chí trinh là một điều kính phục thật đáng làm gương quần lê, nên Đức Thánh Mẫu được thiên hạ tôn xưng là “Mẫu Nghi Thiên Hạ”, lại rất là từ bi cứu thế, giúp hộ lê dân. Ngài thương dân như con Ngài đẻ ra, vì thế thiên hạ đã khâm phục mà lại thương mến Ngài.
Ở tỉnh Nam Định, tại huyện Vụ Bản, làng Vân Cát, có ngôi đền thờ Đức Thánh Mẫu gọi là Phủ Vân Cát. Trong điện và đệ nhị đệ tam cung, ngoài hồ vọng nguyệt và có một cái đài cao rất là nguy nga. Đền này phụng tự rất là huy hoàng, phi liễn đối toàn những bậc danh thần khoa giáp để tiếng tán dương anh linh và công đức của Đức Thánh Mẫu. Ở chính điện có một bức hoành phi, treo ở chính giữa, đề bốn chữ đại tự “Tiên Nhân Cựu Quán”. Đó chính là cựu chỉ của Đức Thánh Mẫu, vườn hoa nhà cảnh khi xưa vẫn còn đó là lần giáng sinh thứ hai.
Lại có một tòa đền ở làng Tiên Hương gọi là Đền Phủ Dầy (Phủ Chính – Phủ Tiên Hương) cũng rất là nguy nga.
Lại có một tòa nhà thờ liệt vị tiên nhân Đức Thánh Mẫu gọi là đền Khởi Thánh có người cháu tự tôn làm trưởng họ để thừa tự các ngôi mộ tổ và liệt vị tiên nhân táng ở xứ La Hào.
Lại có một điện thờ Mẫu gọi là Nguyệt Du Cung. Trước đền cách độ ba trăm thước tây là tôn lăng Đức Thánh Mẫu (tại địa phận làng Tiên Hương).
Từ tôn lăng đến ga Gôi chừng hai cây rưỡi số, có ngôi chùa thờ Phật, và thờ Thánh Mẫu ở tại trên núi Gôi (Gôi Sơn) có danh tiếng ở đó. Thường năm đến kỳ hội Đức Thánh Mẫu là tháng ba, thì làng rước Thánh Mẫu ở đền Phủ Dầy lên chùa Gôi làm lễ rồi mới rước Đức Thánh Mẫu về đền hội xong mới hoàng tạ, vì thế chùa Gôi long trọng lắm. Tự núi Gôi đi lại làng Tiên Hương có một dãy núi dài như hình con rồng xanh nằm trước địa phận làng, làm tiền án. Xem qua địa thế sơn thủy hữu tình, thật là làng Tiên mà sinh ra Thánh, bây giờ làm Mẹ cho quần lê, biết mấy muôn đời. Đúng thật đó là Tiên Hương Vân Cát, chính là cố lý quê hương Đức Thánh Mẫu.
Thiên hạ y quang theo Đức Thánh Mẫu học đạo Ngài rất nhiều, ai ai cũng kính phục, nên ở đền Phủ Dầy có đôi liễn rằng:
Hữu tử thành Tiên hoàn bất tử
Vô sanh dưỡng tử tức như sinh.
Nghĩa là:
Có chết thành Tiên là không chết
Vô sinh gọi mẹ ấy là sinh.
Sau Đức Thánh Mẫu giáng bút phê hiệu Ngài là “Vân Hương Thánh Mẫu”. Vân là Vân Cát, Hương là Tiên Hương nên Đức Thánh Mẫu lấy hiệu Vân Hương, là bất vọng kỳ bổn, có khi gọi là “Tiên Hương Thánh Mẫu” lại có người gọi là “Thiên Tiên Thánh Mẫu”.
Bắc kỳ toàn hạt sùng bái uy nghiêm, còn các tỉnh phía bắc Trung kỳ như là Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình, Quảng Trị cũng sùng bái như là xứ Bắc vậy. Từ năm Ất Sửu đến nay, Đức Thánh Mẫu hiển ứng vào đế kinh (Huế). Trong đó thiện nam tín nữ về đông theo đạo Mẫu nhất tâm cầu nguyện, khi đau ốm lúc tai nạn được nhờ hồng ân Đức Thánh Mẫu tai qua nạn khỏi, cho nên kinh thành Huế vào đến Nam kỳ đều lập đền thờ Đức Thánh Mẫu rất nhiều. Đức Thánh Mẫu thường khi giáng phê cho các kinh văn nhiều bộ, để khuyên dạy.
Đền thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh
Phủ Quảng Cung
Phủ Quảng Cung (còn gọi là Phủ Nấp) nằm trên địa phận thôn Vỉ Nhuế, xã Yên Đồng, huyện Ý Yên là một vùng đất có truyền thống lịch sử văn hoá lâu đời của tỉnh Nam Định. Tương truyền Phủ Quảng Cung được xây dựng trên nền nhà sinh ra Thánh Mẫu ngay sau khi bà mất vào năm thứ tư niên hiệu Hồng Đức (1473) và được tu sửa nhiều lần vào các năm 1601, 1741 với quy mô nhỏ. Năm 1911, phủ được tôn tạo lại to hơn. Diện mạo của phủ hiện nay là từ lần trung tu năm 1994. Ngày 11/4/2013 Phủ Quảng Cung đã được Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch xếp hạng “Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia”. Phủ Quảng Cung nằm trên một khu đất diện tích khoảng 4000m2, quay về hướng Đông. Phía trước phủ là một hồ nước rộng, ao trước phủ hình bán nguyệt và sân phủ. Cạnh hồ Bán Nguyệt là một tấm bia hình cuốn thư. Phủ Quảng Cung bao gồm các hạng mục công trình chính: Nghi môn, Sân phủ, Điện thờ và các công trình phụ trợ thường có trong các phủ, đền của Đạo Mẫu Tam Phủ.
Phối cảnh tổng thể Phủ Quảng Cung
Cuốn thư và hồ Bán Nguyệt trước cửa phủ Quảng Cung, Ý Yên, Nam Định
Nghi môn phủ Quảng Cung tương tự như Nghi môn của nhiều phủ tại vùng Đồng bằng Bắc Bộ, gồm 3 khối cổng. Khối cổng chính được giới hạn bởi hai trụ biểu chính với đỉnh trụ trang trí tứ phượng. Giữa hai trụ biểu chính là một cổng vòm, phía trên có mái che, dạng 4 mái. Hai bên khối cổng chính là khối cổng phụ, được giới hạn bởi trụ biểu nhỏ với đỉnh trụ trang trí con nghê chầu. Cổng phụ là một cổng vòm, phía trên có mái che, dạng 4 mái. Giữa khối cổng chính và khối cổng phụ là bức tường, đắp tượng Hộ pháp, phía trên có mái che. Các bức tường gắn với Nghi môn đều được đắp hình Tứ linh, Tứ quý.
Nghi môn Phủ Quảng Cung
Từ Nghi môn nhìn vào phía trong sân
Sân phủ nằm phía sau Nghi môn có nhiều hạng mục công trình. Hai bên có lầu Cô, Lậu Cậu. Tại bên trái của sân phủ có một ban thờ Mẫu ngoài trời, được đặt trên một bệ cao.
Ban thờ Mẫu ngoài trời, trong sân Phủ Quảng Cung, Ý Yên, Nam Định
Điện thờ của Phủ Quảng Cung gồm 3 công trình đặt song song với nhau: Tiền đường, Trung đường và Hậu đường. Tiền đường (Đệ Tam cung) gồm 7 gian, mái chồng diêm 2 tầng, 8 mái. Mặt trước của tòa Tiền đường có hàng hiên, theo dạng Nghi môn với các trụ, vòm cổng. Bên trong Tiền đường, chính giữa là ban thờ Tứ Phủ Công đồng; tả hữu hai bên là các vị Thần hàng Quan, hàng Chầu Bà.
Mặt trước tòa Tiền tế với hàng hiên phía trước
Bên trong tòa Tiền tế Phủ Quảng Cung
Ban thờ Tam Phủ Công Đồng trong tòa Tiền đường Phủ Quảng Cung
Ban thờ Tứ Phủ Quan Hoàng tại Phủ Quảng Cung
Trung đường (Đệ Nhị cung) gồm 3 gian, đầu hồi bít đốc 2 mái. Gian chính thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế, hai bên là Quan Nam Tào và Quan Bắc Đẩu đặt tại phía trên. Phía dưới là Tam Tòa Thánh Mẫu với bộ 3 tượng: Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn và Mẫu Thoải Cung. 2 gian hai bên thờ đức Thánh Trần và Bà Chúa Bản Đền (hàng Thánh Cô).
Ban thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế tại tòa Trung đường
Ban thờ Bà Chúa Bản Đền (hàng Thánh Cô)
Hậu cung (Đệ Nhất cung) gồm 3 gian, đầu hồi bít đốc, 2 mái. Gian chính thờ Tam Tòa Thánh Mẫu và Tứ Phủ Chầu Bà. Phía trên cùng là ban thờ Mẫu Phạm Thị Tiên Nga – Mẫu Liễu Hạnh với bức đại tự “Mẫu Nghi Thiên Hạ”. Bên trong ban thờ có tượng Mẫu Liễu Hạnh, tạc năm 1770 bằng đồng với tư thế ngồi thiền trên toà sen, thân chạm lưỡng long chầu nguyệt, mang phong cách nghệ thuật thời Hậu Lê. Đây được cho là một trong những pho tượng đẹp nhất vùng đồng bằng sông Hồng. Hai gian hai bên Hậu cung là nơi thờ Thân phụ và Thân mẫu của Thánh Mẫu Liễu Hạnh.
Ban thờ Tam Tòa Thánh Mẫu tại Hậu cung
Ban thờ Tứ Phủ Chầu Bà tại Hậu cung
Ban thờ Mẫu Phạm Thị Tiên Nga (Thánh Mẫu Liễu Hạnh) tại Hậu cung
Ban thờ Thân phụ của Mẫu Phạm Thị Tiên Nga (Thánh Mẫu Liễu Hạnh) tại Hậu cung
Ban thờ Thân mẫu của Mẫu Phạm Thị Tiên Nga (Thánh Mẫu Liễu Hạnh) tại Hậu cung
Bên cạnh Điện thờ là lầu Chúa Sơn Trang và Nhà tổ.
Hiện nay trong Phủ còn giữ lại được nhiều đồ tế tự tiêu biểu như: tượng Mẫu Phạm Thị Tiên Nga bằng đồng tạc năm 1770, với tư thế ngồi thiền trên tòa sen, bát hương bằng đồng, thân chạm lưỡng long chầu nguyệt mang phong cách nghệ thuật thời Hậu Lê và khắc chữ Hán “Quảng Cung linh từ”; bát hương bằng đồng; 34 bản khắc gỗ có nội dung của 64 quẻ thẻ, một số hiện vật quý hiếm, một số bia đá, sắc phong, hoành phi, câu đối ghi dấu sự tích và ca ngợi công đức của Mẫu.
Hàng năm vào ngày 4 tháng 3 âm lịch diễn ra lễ hội truyền thống Phủ Quảng Cung (Phủ Nấp), nơi thờ đệ nhất giáng sinh thánh mẫu Liễu Hạnh. Vào ngày lễ hội, toàn cảnh Phủ Quảng Cung là một rừng người, rừng cờ, rừng hoa hòa quyện bao màu sắc, âm thanh thật linh thiêng nơi cửa Mẫu. Dòng người nối nhau với nhạc thanh đồng, kèn, trống, kiệu hoa, kiệu võng, long đao, bát bảo, kiệu Mẫu, kiệu Thần, múa rồng, sư tử… dài gần 2km rước Mẫu lên chùa Đồi.
Dòng người nô nức về quê Mẹ
Trống giục cờ hoa nối rợp trời
Thánh Mẫu nghiêng nghiêng lồng bóng kiệu
Muôn hồng ngàn tía ngát hương trời.
Tượng Mẫu Phạm Thị Tiên Nga bằng đồng tại Phủ Quảng Cung
Tại lễ hội Phủ Quảng Cung, dòng người rước Mẫu từ chùa Đồi về khu vực Mẫu Thoải bên dòng sông Đáy để tiến hành nghi lễ “rước nước”. Hơn chục chiếc thuyền, phà chờ sẵn để đón kiệu Mẫu, kiệu Thần để thực hiện nghi lễ lấy nước và rước nước:
Gió lộng rồng bay rộn bến sông
Cao dầy lòng Mẫu chín tầng không
Thuyền thuyền lướt sóng say tình Mẹ
Nước phép đong đầy nghĩa mênh mông.
Nghi lễ rước nước diễn ra trang nghiêm, long trọng, và có ý nghĩa rất đặc biệt: Cầu cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an.
Mưa thuận gió hòa lúa tốt tươi
Trĩu bông, sai quả ngọt dâng đời
Dân an, quốc thái niềm vui lớn
Di tích quốc gia mãi rạng ngời.
Nhân dân phấn khởi vui lễ hội, những nén nhang thơm lòng thành kính dâng lên Quốc Mẫu (Mẫu Nghi Thiên Hạ). Cuối buổi chiều ngày diễn ra lễ hội, đoàn rước Mẫu về Phủ Nấp đóng giá hồi cung.
Quần thể Phủ Dầy
Lăng mộ Thánh Mẫu Liễu Hạnh
Thánh Mẫu Liễu Hạnh có ba độ sinh hoá nhưng giai đoạn giáng sinh lần hai ở Phủ Dầy làm con gia đình họ Lê lấy tên Lê Thị Thắng, còn gọi là Giáng Tiên là anh linh hơn cả, có sự anh linh hiển hiện, kì dị bất thường, nổi trội hơn cả và cũng để lại nhiều huyền thoại, ấn tượng trong dân gian hơn cả. Lăng mộ Thánh Mẫu Liễu Hạnh nằm trên cánh đồng xóm 3 thôn Tiên Hương (xã Kim Thái – huyện Vụ Bản – tỉnh Nam Định) tương truyền đây là nơi chôn cất xác phàm của Mẫu sau lần giáng sinh thứ hai.
Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Canh Thân (1880) Khiếu Năng Tĩnh sau khi thi đỗ làm quan, ông đã để tâm tra cứu mảnh đất, con người quê hương Nam Định, phải mất mấy thập kỉ sau mới thành sự. Niên hiệu Duy Tân thứ 9 (1915), Tân biên Nam Định tỉnh địa dư chí lược mới được ra đời. Phần giới thiệu huyện Vụ Bản có ghi:
“Tại xã Tiên Hương có ngôi mộ cổ, bốn phía cây cối xanh tốt, không khí mát mẻ, cảnh sắc u tịch. Tương truyền là mộ Công Chúa Liễu Hạnh, có bia mộ nhỏ nhưng không có chữ. Nhân dân trong vùng, làng xóm các nơi mỗi khi có tật bệnh thường ra khu lăng mộ này hái lá, bẻ cành, hoặc đào rễ cây về sao sắc uống. Thường thì khi đến hái lá phải thắp hương trên mộ, khấn vái cầu xin sẽ khỏi bệnh. Nếu tự tiện hái lá, lại đem lời nhạo báng tất bị ốm đau. Nhưng nếu đem lễ vật ra mộ sám hối thì bệnh tất lại bình thường. Lễ vật chủ yếu là hương hoa, cốt tâm thành là được. Có một viên quan ra mộ nghịch ngợm, về nhà bị ốm lại sửa lễ rất to rồi khấn vái vẻ kiêu căng ngạo mạn, do đó bệnh không khỏi, mà cả vợ y cũng bị sốt cao, sau viên quan đó phải thân hành ra mộ làm lễ sám hối bệnh tình mới lui.”
Khu cổng dẫn vào lăng mộ Thánh Mẫu Liễu Hạnh
Khu mộ này bằng đất, đến thời vua Minh Mệnh (1820 – 1840) quan tri huyện Vụ Bản cho người xây gạch viền khu mộ lại và xây bệ bằng gạch cho mọi người đến đặt lễ cầu may, tại cổng có câu đối ghi:
“Hoa thảo sao chiên năng liệu bệnh
Kính thành tuỳ phục tức an khang”
(Lấy cỏ hoa sao sắc mà dùng khi đau ốm
Tâm thành cầu khấn lại khoẻ như xưa)
Lăng Mẫu Liễu Hạnh được xây dựng hoàn toàn bằng đá xanh, trên khu đất rộng hơn ngàn mét vuông ở cánh đồng xứ Cây Đa cách núi Tiên Hưong khoảng 1km và bên kia núi là mộ tổ họ Trần Lê. Khi lăng hoàn thành, Thánh Mẫu Liễu Hạnh đã giáng bút, lời thơ giáng bút có bốn câu thơ chữ hán và 23 câu thơ lục bát, được Hội Xuân Kinh phổ hoá Đào chi đệ tử nam nữ phụng lập trên bia đá ngày tốt tháng Ba, niên hiệu Bảo Đại Mậu Dần (1938):
Vạn vật đo tòng tạo hoá công
Bạch đầu thương nhĩ phúc du đồng
Thông minh tự ngã hoàng thiên phú
Vô loan liễu tục dữ đào hồng.
(Muôn vật từ xưa tạo hoá xây
Trẻ già đều hưởng phúc vui đầy
Trời cho thông sáng lòng ta được
Liễu biếc đào hồng cảnh đẹp thay).
Dưới bốn câu thơ chữ hán, còn có bài thơ lục bát nói lên việc xây dựng lăng là do tình cảm tốt đẹp, hay nói khác là có duyên của mọi người, việc làm tốt đẹp này sẽ làm vui lòng Mẹ và Mẹ sẽ độ trì cho đàn con có cuộc sống yên vui hạnh phúc:
“Khen người mài sắt có công
Nên kim chẳng quản những công dùi mài
Có duyên mà cũng có tài
Năm trăm năm lẻ lâu dài là đây
Đội ơn trời đất cao dầy
Lập đền sửa mộ xưa nay mấy người?
Phen này mẹ cũng lòng vui
Vui non vui nước vui trời bao la
Tiên Hương Vụ Bản quê nhà Mẹ đây
Đời xưa cho đến đời nay
Lê Triều kim thượng gần rày sáu trăm
Đố ai tính được mấy năm
Sáu ngàn có lẻ vầng trăng vẫn tròn
Xuân kinh Phổ Hoá đàn con
Đàn con Phổ Hoá là con hữu tình
Hữu tình mẹ cũng thương tình
Đắp xây Lăng mộ chứng minh có Trời
Tiên Hương linh tích muôn đời
Trường xuân phúc quả thảnh thơi lâu dài
Có duyên ở cũng có tài
Thực là tình mẹ lâu dài nghĩa con
Khá khen một tấm lòng son”.
Tấm bia lưu giữ bài giáng bút được đặt trong nhà bia làm kiểu bốn mái cong cong, đỉnh mái là búp sen, bốn đầu kìm góc đao là chim phượng. Nhà bia làm rất công phu, lại hài hoà duyên dáng. Hệ thống cột vuông có đấu thượng và bệ được soi chỉ kép công phu. Đặc biệt là trên mặt hai cột chính diện được khắc nổi câu đối chữ Nôm, nổi lên thân thế ba lần sinh hoá, nêu tấm gương rất hiếu nghĩa, rất mực chung thuỷ với Mẫu.
Lăng xây theo kiểu hình vuông mỗi cạnh 24m, từ ngoài vào trong tạo năm lớp tường hoa theo cấp độ khác nhau, tường trong cao hơn tường ngoài, tuy chiều cao tường hoa đều 1m mà vẫn thấy rõ sự vươn dần lên phần mộ, và bốn mặt tường hoa đều có cửa lên mộ, mỗi cửa lại có một bình phong làm kiểu cuốn thư, đục chạm hoa lá cách điệu nghệ thuật. Mỗi cạnh tường hoa có hai trụ góc, hai trụ công do vậy mỗi vòng tường có 12 trụ, trên mặt đấu là 1 búp sen nên 5 vòng tường có 60 búp sen, đây là con số tròn trĩnh một hội (60) mà thuyết âm dương đã đề cập.
Hoạ tiết trang trí trên các tường hoa cũng không đơn giản, lớp ngoài tạo chấn song, lớp thứ hai tạo chữ “thọ”, lớp thứ ba tạo nổi chữ “vạn” và nền là kiểu trang trí “cẩn qui” (hình mai rùa) đều đặn. Lớp thứ tư chạm các vòng tròn lồng vào nhau và lớp trên cùng tạo hình ống hương bao quanh phần mộ. Các trụ cổng của 5 vòng tường hoa đều chạm chỉ, tạo đấu, chạm câu đối mà nét chữ thật tài hoa, gợi cảm. Hoạ tiết và chữ ở vòng tường hoa cũng toát lên ý nghĩa trường tồn và từ thiện.
Từ bốn cửa đông, tây, nam, bắc đều lên được phần mộ. Mộ tạo hình bát giác, mỗi cạnh dài 1m. Thân mộ trên có miệng loe ra, rồi vát lên thành mái, nhưng vẫn để lộ phần đất trống có đường kính 2.6m là đường thông âm dương. Mỗi cạnh ở phần mái vát lại được soi chỉ và tạo 21 bông hoa nhỏ và tất cả quanh mộ có 168 bông hoa nhỏ.
Đăc biệt các trụ cổng lên mộ đều khắc câu đối nội dung tán dương công đức Mẫu:
– Câu đối cửa phía Đông:
Từ ái nhất tâm nhân phụ mộ
Hiếu trinh thiên cổ nữ anh phong
(Lòng từ một lòng người kính mộ
Hiếu trinh ngàn thủa đẹp tiếng thơm)
– Câu đối cửa phía Tây:
Diệu pháp huy chương chương bác quận
Vân phàm phố tế tế Nam Phương
(Phép lạ sáng ngời, ngời đất Bắc
Mây lành che chở giúp dân Nam)
– Câu đối cửa phía Nam :
Bất tử sinh linh sơn hà tịnh thọ
Như sinh khí phách thiên địa trường tồn
(Không thể mất, sự tốt đẹp và anh linh còn mãi với non sông
Chết như sống, khí tiết hào hùng tồn tại lâu dài cùng trời đất)
– Một câu đối khác như sau :
Trắc dĩ nan đàn sơn thốn thảo
Ảm hà bội giác thuỷ chi nguyên
(Trèo lên núi Dĩ (núi Mẹ) khó đền tấc cỏ tươi xanh
Uống giọt nước sông càng nghĩ về nguồn nước chảy)
Lăng Thánh Mẫu Liễu Hạnh
Lăng Mẫu gần đây cũng được tu sửa lại thêm khang trang và hoành tráng. Theo nhiều tài liệu cũ thì trước kia khu lăng mộ Thánh Mẫu không có nhà cho thủ từ ở, tuy nhiên để việc trông coi được thuận tiện, cũng như việc tiếp đón du khách được trang trọng, về sau xây dựng thêm khu ở của thủ từ và bao quanh khu lăng mộ bằng hàng rào sắt. Bên cạnh khu lăng mộ còn có một gian nhà trong đó điện thờ được bài trí với ban thờ Mẫu nằm chính giữa, từ ngoài bước vào thì bên phải ngay cạnh ban thờ Mẫu là ban thờ Bà Cai Bản Mệnh, tiếp là ban thờ đức Thánh Trần. Bên trái của ban thờ Mẫu là ban thờ Quan Lớn Đệ Nhất và ban thờ Nhị Vị Cô Nương.
Lăng mộ Thánh Mẫu Liễu Hạnh hiện nay đã trở thành một di tích không thể thiếu được khi mỗi khách hành hương về với lễ hội Phủ Dầy và ngày càng nhiều các du khách về thăm quan dâng hương lên mộ phần bày tỏ tấm lòng thành kính đối với Mẫu.
Phủ Chính Tiên Hương
Phủ Chính Tiên Hương hay còn gọi là Phủ Tiên Hương nằm ở xóm 1 thôn Tiên Hương xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Phủ Tiên Hương được xây dựng từ thời Hậu Lê (1642) trải qua bao thăng trầm lịch sử của thời gian, cho đến nay Phủ vẫn gìn giữ được nét cổ kính thời xưa.
Phủ Chính Tiên Hương những năm 1920
Tới năm 1996, Phủ Tiên Hương đã được trùng tu lớn để thờ thân phụ và thân mẫu của Thánh Mẫu Liễu Hạnh, đồng thời được sắp xếp thêm cung thờ Đức Thánh Trần. Hiện tại Phủ Tiên Hương vẫn còn lưu giữ được được nhiều sắc phong của các triều đại sắc phong cho Thánh Mẫu (sớm nhất là đời Lê Chính Hòa, rồi đến Lê Vĩnh Thịnh, Lê Vĩnh Khánh đầu thế kỷ XVIII) Thánh Mẫu được tôn là “Mạ Vàng Bồ Tát”, bậc “Mẫu Nghi Thiên Hạ” mẹ của muôn dân.
Phủ Chính Tiên Hương ngày nay
Cho đến nay, Phủ đã được xây dựng tổng cộng 19 toà với 81 gian lớn nhỏ, thế ngự quay mặt theo hướng Tây Nam dãy núi Tiên Hương, cách đường tỉnh lộ 56 khoảng 500 mét và cách núi Tiên Hương khoảng chừng 1 km, rất thuận tiện giao thông, là nơi trung tâm của quần thể Phủ Dầy. Theo quan niệm dân gian, Phủ Tiên Hương được xây dựng trên một thế đất rất đẹp, Phủ nằm ngay trên đầu con rồng, với hồ bán nguyệt xây dựng ngay trước Phủ là hàm rồng, phía Nam có một con lạch chạy dài là vòi rồng.
19 tòa cùng 81 gian lớn nhỏ, cao thấp khác nhau, nhưng xây với nguyên tắc rất cân đối hài hòa, có quy hoạch chính – phụ, cao thấp hợp lý, tạo được không gian thoáng đãng mà vẫn trang nghiêm nơi thờ cúng. Nếu nhìn tổng thể, từ bên ngoài vào là một hồ nước rồi đến ba tòa phương đình, một hồ bán nguyệt và đến các công trình chính (bốn lớp cung). Hai bên công trình chính là hai dãy nhà dài chạy suốt nối liền lầu Cô, lầu Cậu với nhà bia, nhà khách, nhà bếp.
Hồ đầu tiên bắt gặp trên đường vào Phủ Chính Tiên Hương được coi là điểm tụ thủy cho thế đất. Giữa hồ có một đảo nhỏ để đặt cột dựng cờ bằng đá. Tiếp đó, một khoảng sân rộng nối với hệ thống nghi môn trụ, trên đỉnh trụ đắp “phượng” tượng trưng cho không gian, và “lân” kiểm soát tư cách khách hành hương.
Ba tòa nhà dàn ngang, phương du ở giữa, hai phương đình hai bên tiếp theo được dựng trên nền cao, xây cất bằng gỗ lim, trống ở bốn phía, mái được làm bằng ngói ống. Cả ba tòa này đều được kiến trúc hai tầng tám mái phản ánh nhận thức về vũ trụ theo dịch học: cả khối nhà như một thể thống nhất tượng trưng cho “thái cực”, hai tầng mái (trên nhẹ là dương, dưới nặng là âm) tức “lưỡng nghi” do thái cực sinh ra. Bốn phía tượng trưng cho “tứ tượng”. Tám mái tượng trưng cho “bát quái”. Đó là sự hình thành thế giới đi từ vô hình đến hữu hình. Tám góc đao cong hòa nhập với lối kiến trúc bẩy kẻ, mê cốn tạo nên vẻ thanh thoát cho công trình. Mỗi công trình có hai bậc lên xuống, mỗi bậc có hổ đá chầu ở hai bên. Phương du gồm 3 gian, còn phương đình hai bên chỉ có một gian, đều được trùng tu năm Bảo Đại thứ 7 (1932).
Hồ Bán Nguyệt, cạnh hồ là lầu Chuông và lầu Chiêng
Phía trong phương đình là sân rộng. Giữa sân có hồ bán nguyệt dài 26 mét, kè bằng những viên đá hình lục lăng, có lan can bao quanh. Hai lối lên xuống được xây thành bậc, có tay vịn bằng đá được chạm rồng lượn mềm mại, có vân ám đan xen ở trụ trên, trụ dưới. Phần chính giữa tường hoa bao quanh hồ là một cuốn thư ghi chép lịch sử xây dựng và những người có tâm cúng tiền để xây dựng Phủ.
Hồ Bán Nguyệt
Lầu Chuông
Lầu Chiêng
Hệ thống công trình chính của Phủ Chính Tiên Hương nằm phía trong hồ, còn đối xứng qua hồ ở hai bên công trình chính là nhà bia và lầu Cô (bên phải Phủ), nhà bia và lầu Cậu (bên trái Phủ). Công trình chính gồm có bốn lớp cung bề thế, mái nối mái, nhỏ dần từ ngoài vào trong, tạo không gian nội thất trong Phủ Tiên Hương rộng phía ngoài và sâu hút phía trong.
Ban thờ tại lầu Cậu, bên trái tòa Đệ tứ cung
Ban thờ tại lầu Cô, bên phải tòa Đệ tứ cung
Cung đệ tứ rộng nhất, dài 20m, rộng 9m8, hai hồi bít đốc, lợp ngói âm dương, trên bờ nóc mái cung đều có ngoàm đỡ hoành được nối với nhau thành bộ khung chắc chắn. Các hệ thống kèo, xà ngang, xà dọc, được gia công, soi chỉ chạm khắc rất công phu với nhiều họa tiết sinh động: dơi, chim, cá, nho, lựu, trúc, hoa sen, hoa cúc. Giữa cột chính với xà ngang các vì kèo có chạm hình cá hoa long mềm mại. Mỗi vì kèo phần trên xà thượng lên đến thượng lương được chạm vân mây và mặt hổ phù cách điệu, các bức cốn, mê nách diễn tả cặp tiền “ngũ phúc”, những trái đào lồng được chạm khắc tinh xảo. Chính giữa cung đệ tứ có nhang án thờ Tứ Phủ Công Đồng. Một tòa cửu long với 36 ngọn đèn được đặt trước nhang án. Trong cung còn có các kiệu thờ Mẹ và kiệu võng.
Ban Công đồng tại Đệ tứ cung
Cung đệ tam thấp và hẹp hơn cung đệ tứ, gồm 5 gian, dài 13m, rộng 6m3, bên trong thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế và Ngũ Vị Vương Quan. Hai sập thờ trong cung chân uốn cong, chạm nổi các mặt hổ phù, hoa lá, bốn góc chạm hình “thao thiết” (nửa mặt hổ phù). Trong cung, có giá để những đồ bát bửu, hai giá chiêng, trống mà thanh giá được tạo bởi hình chạm hai con rồng quay đuôi vào mặt trời ở giữa. Theo quan niệm chung, đây là biểu tượng cầu mưa của cư dân nông nghiệp (gõ vào mặt trống là sấm sét trên bầu trời để gọi mưa).
Ban thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế và Ngũ Vị Tôn Quan tại Đệ tam cung
Cung đệ nhị được xây hẹp lại như kiểu nhà cầu – rộng 2m5, dài 11m3, nối mái cung đệ nhất với cung đệ tam. Trong cung, có một ban thờ Tứ Vị Chầu Bà và ba bộ long ngai lớn đặt trên ba sập thờ.
Bộ Long ngai tại Đệ nhị cung
Ban thờ Tứ vị Chầu Bà tại Đệ nhị cung
Cung đệ nhất (cung cấm) tách biệt hẳn với thế giới bên ngoài bởi một hệ thống cửa ngăn với cung đệ nhị, dùng hoàn toàn ánh sáng điện hoặc nến mờ ảo, tạo không gian linh thiêng. Cung này dài 10m, rộng 7m6, gồm ba gian, là nơi thờ Tam Tòa Thánh Mẫu và Tổ Phụ, Tổ Mẫu. Năm pho tượng trong năm khám nhỏ và đặt trong một khám to khảm trai. Mẫu Đệ Nhất ở giữa, mặc áo đỏ – đồng nhất với Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn – áo xanh và Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ – áo trắng đặt ở hai bên. Nhiều người quan niệm ba pho tượng này đều là Mẫu Liễu phân thân. Nhìn vào đây có thể thấy, tượng Liễu Hạnh vừa là tượng Mẫu, vừa là tượng một nhà sư, lại vừa mang dáng dấp tượng một đạo nhân, và phải chăng đó cũng là một bằng chứng cho thấy sự dung hội giữa đạo Phật, đạo Mẫu và đạo Thần tiên ở Việt Nam.
Cách cấu trúc sâu và hẹp của bốn lớp cung gây ấn tượng cho khách đi lễ bái từ chỗ trần tục đời thường đến chỗ thâm nghiêm linh thiêng. Ba cung sau, hình khắc ít, trang trí chủ yếu bằng các tán lọng, hoành phi câu đối, nón công đồng, các đồ thờ tự, đặc biệt là các bức y môn được chạm trổ cầu kỳ. Y môn chia làm ba ô bằng các gờ nổi trụ lửng kiểu dải lụa, trang trí lưỡng long chầu nhật, hình hoa lá, hình long mã trong tư thế chạy xô vào trên sóng nước. Các bức y môn rực rỡ này tạo thêm độ sáng cho kiến trúc trong Phủ.
Ban Tam Tòa Thánh Mẫu thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh và hai vị phu nhân hầu cận
Đằng sau Phủ Chính Tiên Hương có một khu vườn nhỏ gắn với sự tích về nơi học hành của Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Ở đây ngoài động Sơn Trang còn có cây chuối với buồng chuối hàng trăm nải, cây thị trăm tuổi,…
Ban Bà Chúa Thượng Ngàn tại Động Sơn Trang
Năm 1986, theo báo cáo kiểm kê của Bảo tàng Nam Hà, trong số 230 hiện vật ở Phủ Tiên Hương có 63 hiện vật mộc, 51 hiện vật sành sứ, thủy tinh, 116 hiện vật kim loại. Di tích có 31 đạo sắc phong kể từ năm Chính Hòa thứ tư (1688) đến năm Khải Định thứ chín (1924), 14 văn bia cổ, 3 quả chuông, 2 chiêng đồng (rất tiếc là các sắc phong ấy nay đã bị thất lạc).
Phủ Vân Cát
Phủ Vân Cát là một di tích chính nằm trong Quần thể du lịch tâm linh Phủ Dầy. Phủ Vân Cát nằm ở phía bắc thôn Vân Cát thuộc xã Kim Thái, cách Phủ Tiên Hương chừng 1 km. Từ Phủ Tiên Hương đi thẳng tới ủy ban nhân dân xã Kim Thái, bên phải đi tới Lăng Mộ Thánh Mẫu, còn đi về bên trái là đi tới Phủ Vân Cát.
Phối cảnh tổng thể Phủ Vân Cát, khu di tích Phủ Dầy, Nam Định
Khu di tích tâm linh Phủ Dầy là nơi tâm linh gắn liền với sự giáng sinh lần thứ hai của Mẫu Liễu Hạnh. Tại Phủ Dầy, phủ Tiên Hương là nơi thờ chính của Mẫu, gắn liền với quê chồng của Mẫu. Phủ Vân Cát là nơi thờ bên ngoại của Mẫu tức là nơi Mẫu được sinh ra. Riêng thân phụ và thân mẫu của Mẫu được thờ tại Phủ Tổ.
Lịch sử Phủ Vân Cát: Đền được xây dựng từ thời vua Lê Huyền Tông (1663 – 1671). Khoảng đời Cảnh Thịnh (con Vua Quang Trung, 1794 – 1800) hội nguyên Trần Gia Du, thiếu tả giám Trần Công Bản đã mở rộng ra. Đến năm Kỷ Mão (1879) đời Tự Đức, quan huyện Lê Kỳ đã sửa lợp lại. Năm Thành Thái thứ 10 (1898) đền phủ bị hư hại nhiều vì mưa gió nên các quan huyện cùng các bậc thân hào đứng ra sửa, đến năm Thành Thái thứ 12 (1900) thì hoàn thành.
Phủ Vân Cát là một công trình kiến trúc quy mô, được xây biệt lập trên một khu đất rộng gần một héc ta. Phủ Vân Cát quay về hướng Tây Bắc, trước mặt là cánh đồng lúa. Kiến trúc Phủ Vân Cát theo kiểu “nội trùng thiêm, ngoại chữ quốc”, nghĩa là các toà nhà chính bên trong song song chung thềm, hai bên có hành lang nhà ngang, mặt trước có ngọ môn khép kín.
Tuy bị hư hỏng nặng, nhưng đến nay Phủ Vân vẫn còn bảy toà với ba mươi gian lớn nhỏ. Cung đệ nhất mái cong, làm theo kiểu chồng diêm tám mái. Trên các thành phần kiến trúc được chạm khắc phượng múa theo nhiều dáng, “quy” (rùa) ẩn hiện nơi ao sen, bầy “ly” vui đùa uốn lượn ở các góc xà, đầu bẩy,…
Hệ thống cửa Ngọ Môn xây dựng theo kiểu chồng diêm ba tầng, với hàng chục cột trụ, năm gác lâu, tường bao quanh, nhiều văn bia được đặt dưới Ngọ Môn, ghi chép về việc Thánh Mẫu Liễu Hạnh giáng sinh và sự đóng góp tiền của những người hảo tâm xây dựng đền. Phía ngoài Ngọ Môn có hồ bán nguyệt, giữa hồ là thủy lâu, ba gian, mái cong. Công trình này được gia công rất công phu, từ viên đá ghép móng, hệ thống lan can chung quanh hồ với các họa tiết “tứ linh”, “tứ quý”, đến hai cầu đá bắc qua hai đầu hồ vào thủy lâu cũng thể hiện tài nghệ của các nghệ nhân xưa.
Ngũ Môn Phủ Vân Cát
Lầu Phương Du trước Ngũ Môn
Nội phủ có bốn cung. Cung đệ nhất và cung đệ nhị đều ba gian, được tôn tạo và mở rộng từ đời Tự Đức năm Kỷ Mão (1879). Cả hai cung này đều bị giặc Pháp phá hủy bằng ném bom, năm 1959 dân làng xây dựng lại cung đệ nhất, còn cung đệ nhị mới được tôn tạo lại năm 1992. Cung đệ nhất là chính cung khép kín, cung này thờ Tam Tòa Thánh Mẫu, tượng bằng đồng gồm có Mẫu Thượng Thiên ngồi giữa, Mẫu Thượng Ngàn bên trái, Mẫu Thoải bên phải. Cung đệ nhị thờ Tứ Phủ Chầu Bà và Ngũ Vị Tôn Quan, đặc biệt có hai khám hai bên thờ Ông Hoàng Mười (bên phải) và Ông Hoàng Ba (bên trái). Tiếp là cung đệ tam, tại đây thờ Công Đồng Tứ Phủ, cung này có thờ Bà Chúa Bản Đền. Cung đệ tứ hay còn gọi là tòa bái đường, cung này có thờ Quan Đệ Nhị Giám Sát.
Phối cảnh tòa Đệ Tứ cung (Tiền đường), bên phải là lầu Cô, bên trái là lầu Cậu
Ban Ngũ Vị Tôn Quan tại tòa Đệ nhị cung
Trong Phủ còn lưu giữ được nhiều câu đối, đại tự, hoành phi có giá trị. Ngoài ra, hệ thống văn bia ở Phủ Vân Cát rất có giá trị về lịch sử đặt dưới ngũ vân lâu ba tầng ở mặt tiền. Cùng với hệ thống đồng trụ tường hoa khiến tổng công trình nội trùng thiềm, ngoại chữ quốc ở đây bố cục chặt chẽ – là di tích xếp hạng di tích lịch sử quốc gia.
Phủ Cây Đa Bóng – Nguyệt Du Cung
Thời phong kiến triều Hậu Lê, Phủ Bóng – Nguyệt Du Cung còn có tên gọi Đền Cây Đa Bóng là một trong những di tích thuộc quần thể Phủ Dầy có vị trí giá trị lịch sử đặc biệt, ngôi đền toạ lạc ở phía Tây Nam lăng Thánh Mẫu Liễu Hạnh, cửa đền hướng về Lăng Mẫu. Tương truyền vào đêm rằm trăng sáng, Thánh Mẫu thường cùng các tiên nữ quây quần bên gốc đa, múa hát dưới ánh trăng gần khu mộ. Dân làng thầm lặng dõi theo dần dần nhận ra đây là điềm linh thiêng, linh ứng mới bàn nhau lập miếu thờ dưới gốc cây đa nên thường gọi là đền Cây Đa Bóng hay Phủ Bóng. Sau đó những người thường thấy Tiên Chúa và tiên nữ múa hát dưới trăng lại đặt tên đền là Nguyệt Du Cung. Từ bao đời nay, Phủ Bóng Nguyệt Du Cung đã nổi tiếng huyền bí, linh thiêng, có sức lôi cuốn, hấp dẫn mạnh mẽ đối với đồng quan, đồng đền, thanh đồng, đệ tử và du khách thập phương. Đây không chỉ là chốn tịnh tâm, nơi thắp hương “giỗ Mẹ” của người Việt mà còn là nét đẹp văn hoá tâm linh của cả dân tộc.
Đến Nguyệt Du Cung ta không cảm thấy sự xa xôi, thần bí của thế giới tâm linh với dòng chảy cuộc sống, ngược lại chính từ Nguyệt Du Cung đã khơi dậy sự đồng cảm, đồng điệu với người xưa và trái tim của mỗi con người thực sự rung cảm trước những trang huyền thoại mới. Nghe tiếng đàn, tiếng sáo khi trầm lắng, khi réo rắt, ngắm nhìn những cô gái múa dẻo hát hay,… ta cảm thấy như được thấy Thánh Mẫu và các cô tiên múa hát dưới gốc đa từ những ngày nào,…
Phủ Cây Đa Bóng – Nguyệt Du Cung xưa kia có cây đa cổ thụ và ngôi miếu cổ trên gò đất giữa đồng lúa. Tương truyền: Gò rất thiêng, dân Thiên Bản không ai dám xâm phạm.
Nguyệt Du Cung là một công trình kiến trúc khang trang với 4 cung trùng thềm điệp ốc. Phía ngoài sân đền là Tam quan mái cong rất ấn tượng, nổi lên lầu chuông thật uy nghi. Nhìn tổng thể, phủ Bóng là đền to phủ lớn, khu di tích địa linh này là một chốn linh thiêng đặc biệt, phía trước là tiền đường có hướng chầu vào khu lăng mộ Đức Thánh Mẫu, phía đằng sau dựa vào đỉnh núi Tiên Hương, hai bên tả hữu đều có Thanh Long, Bạch Hổ cân bằng. Bên tả Thanh Long có thế uốn lượn hiền hoà, ôm bao. Hữu Bạch Hổ có thế cao đầy, vun vút. Nhìn từ xa xa Phủ Bóng Nguyệt Du Cung trông giống hệt như một chiếc Ngai Quan lớn rất vững chãi và uy nghi nằm ở ngay trung tâm của Quần thể di tích Tâm linh Phủ Dầy.
Cổng phủ Nguyệt Du Cung
Cho đến nay Phủ Bóng vẫn còn lưu giữ một số hiện vật cổ rất quý giá từ thời Lê, thời Nguyễn. Có thể kể đến pho tượng Thánh Mẫu cổ bằng đồng, cao khoảng 60 cm. Hiện pho tượng này được đặt tại cung Mẫu Đệ Nhất. Một chiếc trống đồng cổ được đúc theo kiểu trống da, có tang và đai trống, nhưng âm thanh chẳng khác gì trống đồng Đông Sơn. Chiếc trống này được đúc thời Vua Thành Thái, tức năm Giáp Thìn (1904) do Tri phủ Nguyễn Hưng Trần Tướng Công cùng phu nhân cống tiến. Đặc biệt, tại đền còn lưu giữ hai tấm bia đá xanh ngọc bích tựa đề “Nguyệt Du cung bi ký” đều khắc vào năm Bảo Đại thứ 4 (1929). Ngoài ra, trong đền có một số cổ vật quý như đôi chéo có khắc chữ chìm, bát hương lớn bằng sứ cao 50 cm in chìm dòng chữ “Tiên Hương Nguyệt Du Cung”. Hiện trong đền còn có một số câu đối cổ:
Thiên bản địa linh lưu Thánh tích
Nguyệt du thuỷ hoạt tố tuyên nguyên.
(Thiên Bản đất thiêng in dấu Thánh
Nguyệt Du nước chảy dõi nguồn tiên)
Mẫu Nghi vọng trọng Côi Sơn Thạch
Tử dục đàm ân vị Thuỷ ba.
(Dáng hình Mẫu sừng sững như đỉnh Non Côi
Tình thương con tràn trề tựa sóng sông Vị)
Trong cuốn “Đạo Mẫu Việt Nam’’ giáo sư Ngô Đức Thịnh nêu rõ: “Phủ Bóng thờ hội đồng các Bóng, các giá, người có đồng phải trình đồng ở đây trước khi hầu đồng ở các di tích trong quần thể Phủ Dầy’’. Đây cũng có thêm một ý nghĩa nữa của Nguyệt Du Cung mang tên Phủ Bóng.
Phủ Mỗ – Tây Mỗ Linh Từ
Phủ Tây Mỗ, hay còn gọi là Phủ Mỗ, có tên cổ là “Tây Mỗ Linh Từ” ở chân núi Ông Quân, làng Tây Mỗ, xã Hà Thái, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Phủ Tây Mỗ là nơi thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Nơi đây gắn với sự tích giáng sinh lần thứ ba của Mẫu Liễu Hạnh. Theo truyền thuyết Mẫu Liễu Hạnh vốn là công chúa thứ hai tên là Đệ Nhị Quỳnh Hoa Công Chúa của Vua Cha Ngọc Hoàng. Do một lần, lỡ đánh rơi vỡ chén ngọc quý của Thiên Đình nên Công Chúa bị phạt giáng xuống dương gian. Mẫu Liễu Hạnh có 3 lần giáng sinh xuống cõi trần:
+ Lần thứ nhất bà giáng trần năm Thiệu Bình 1434, vào nhà họ Phạm ở Yên Đồng huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Bà có tên Phạm Thị Tiên Nga và hưởng thọ 40 tuổi. Ngay sau khi bà mất, nhân dân xã La Ngạn, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng đã lập đền thờ trên nền nhà cũ, gọi là Phủ Đại La Tiên Từ. Đồng thời quê mẹ của Người là xã Vỉ Nhuế cũng lập đền thờ để tưởng nhớ công lao của bà, gọi là Phủ Quảng Cung.
+ Lần thứ hai bà giáng sinh năm Thiên Hựu 1557 vào nhà họ Lê ở An Thái, Vụ Bản, Nam Định. Lần này, Bà kết duyên với ông Trần Đào Lang sinh được một người con trai, tên là Nhân, một con gái tên là Hoà. Năm 21 tuổi hạn kỳ đã hết tuyệt nhiên không bệnh tật gì, bỗng nhiên qua đời. Bà mất ngày 3 tháng 3 năm Đinh Sửu, thời Lê Gia Thái thứ 5 (1577). Lăng mộ và đền thờ ở Phủ Dầy, thôn Tiên Hương – Vân Cát, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
+ Lần thứ ba bà giáng sinh xuống một gia đình họ Hoàng tại làng Tây Mỗ, xã Hà Thái, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa để tái hợp cùng Mai Thanh Lâm (còn gọi là Mai Sinh) là hậu kiếp của Trần Đào Lang được hơn một năm thì mãn hạn hồi tiên. Tên bà lúc đó là Hoàng Thị Trinh. Bà kết duyên năm 18 tuổi, năm 19 tuổi bà về trời. Vợ chồng bà có một con trai tên là Thanh Cổn. Thanh Cổn sau này được thờ tại Đồi Ngang và có tên là Cậu Bé Đồi Ngang.
Theo văn bia tại đền Quảng Cung (nơi giáng sinh lần thứ nhất của Mẫu Liễu Hạnh) của tri huyện Nguyễn Đình Việp năm 1741 và phả ký của tiến sĩ Vũ Huy Trác soạn năm 1781 đều khẳng định lần thứ ba giáng sinh của Mẫu là tại Tây Mỗ. Các tài liệu cho rằng bà sinh vào năm 1650, đến năm 1667 tái hợp với Mai Thanh Lâm sinh được một con. Một năm sau là năm 1668 bà đã về trời. Ngay cả một câu đối cổ tại Phủ Dầy cũng xác nhận Mẫu giáng sinh lần thứ ba tại Tây Mỗ.
Cây Mít cổ có tuổi hơn 500 năm
Phủ Mẫu Tây Mỗ có từ rất xa xưa, cách đây khoảng gần 600 năm, kể từ ngày Mẫu hóa. Di tích còn lại là một cây mít cổ có tuổi hơn 500 năm. Có người nói đó là cây mít do chính tay Mẫu trồng khi còn ở cõi dương trần. Cây mít cổ này hiện vẫn nằm bên chân núi ngay bên trái ngôi Đền. Trải qua thăng trầm của đất nước, chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ, ngôi đền đã bị tàn phá nặng nề, hầu như chỉ còn lại vết tích. Đến những năm 1990, nhân dân sở tại dựng ngôi miếu nhỏ trên nền cũ, năm 1996 được công nhận di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Vị Thủ nhang chấp tác từ năm 2003. Với sự đồng tâm của chính quyền và nhân dân xã Hà Thái cùng công đức của thập phương, từng bước tôn tạo di tích đặc biệt. Từ năm 2012 có vợ chồng người cháu ngoại của làng là Trần Thị Thu Hà – Phạm Thế Vinh, hằng tâm hằng sản, công đức hàng chục tỷ đồng tái thiết đền phủ, cảnh quan đến hôm nay đã tạm hoàn thành. Hiện nay, đền đã rất khang trang có đủ các cung thờ Mẫu, Tam Phủ, Tứ Phủ, Bà Chúa Sơn Trang,…
Phủ Mỗ là nơi sơn thủy hữu tình, tòa phủ mới trùng tu tựa núi Ông Quân như thể tay ngai. Mặt hướng đầm sen bán nguyệt. Từ nghi môn trụ biểu thấy bức bình phong đề Tây Mỗ Linh Từ, qua giếng ngọc lung linh tới sân đền rộn rã chim muông, ngát thơm hoa trái, có cây mít cổ thụ, tương truyền từ thuở Thánh Mẫu giáng sinh đến nay nhưng ông rắn có mào vẫn về chầu trực. Bước lên 18 bậc lan can đá chạm rồng vào tòa Tiền tế chính cung thờ Ngũ Vị Tôn Ông, Công Đồng Tứ Phủ, đôi bên thờ Tứ Phủ Thánh Cô, Tứ Phủ Thánh Cậu. Trung cung thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế, quan Nam Tào, quan Bắc Đẩu.
Tứ Trụ Phủ Mỗ
Bức bình phong
18 bậc lan can đá chạm rồng vào tòa Tiền tế chính
Cung Công Đồng Tứ Phủ (Cung ngoài)
Ban Tứ Phủ Thánh Cô
Ban Tứ Phủ Thánh Cậu
Cung Đức Vua Cha Ngọc Hoàng (Cung thứ 2)
Cung thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh (Cung Cấm)
Hậu cung tôn trí kim thân Thánh Mẫu với kích thước lớn hơn người thật, dung mạo phi phương, cốt cách nhân từ, thật tôn kính mà xiết bao gần gũi, trên có bảng vàng “Mẫu Nghi Thiên Hạ”, đôi bên có Nhị Vị Tiên Nương thị giả. Trở ra phía bên trái phủ là cung thờ Đức Thánh Trần, bên phải là cung thờ Phật Mẫu Địa Hoàng, Động Sơn Trang và các bàn thờ Cô Bé Cậu Bé, Thủ Đền, Thủ Phủ.
Tôn tượng Quan Thế Âm Bồ Tát
Giếng Ngọc trước Đền
Động Sơn Trang
Ban Phật
Phủ Sòng Sơn
Đền Sòng Sơn
Đền Sòng Sơn nổi tiếng trong dân gian với câu ca “Đền Sòng thiêng nhất xứ Thanh”. Đền Sòng có tên chữ Sùng Sơn (xưa kia là Sùng Trân Miếu). Ngôi đền thuộc trang Phú Dương, xã Cổ Đam, huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa (nay là phường Bắc Sơn, thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa).
Đền Sòng Sơn được khởi dựng năm nào, đến nay vẫn chưa tìm được tư liệu xác định chính xác. Truyền thuyết làng Cổ Đam kể rằng: Vào khoảng niên hiệu Vĩnh Tộ nhà Lê (1619-1628) một ông lão người làng Cổ Đam được Tiên Chúa Liễu Hạnh nhập hồn báo mộng: “Hãy nói với dân làng dựng cho Ta một ngôi đền để Ta ngự, Ta sẽ phù hộ cho các ngươi”. Theo lời Tiên Chúa, vào một sáng cuối tháng giêng, ông lão mang một gậy tre đến khu vực Đền Sòng cắm xuống đất, thắp hương và khẩn cầu: “Nếu cây gậy này mà tươi tốt thì chúng con sẽ chọn đất này để lập đền tôn thờ Tiên Chúa”. Ít lâu sau cây gậy tre nảy lá, đâm măng, lớn lên thành bụi tươi tốt. Dân làng cho rằng nữ thần Liễu Hạnh đã hiển thánh tại đây liền vận động góp tiền của xây dựng Đền bên cạnh bụi tre thần.
Ngôi Đền được tu bổ vào các thời Cảnh Hưng, triều vua Lê Hiển Tông (1740- 1786), năm Duy Tân thứ sáu (1912), năm Khải Định thứ tư (1919), năm Bảo Đại thứ ba (1928) và được tu sửa lại vào năm 1939. Năm 1993 được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là di tích lịch sử – văn hóa cấp Quốc gia.
Theo “Truyền kỳ tân phả” thì Liễu Hạnh là Đệ Nhị Tiên Chúa Quỳnh Nương, con gái của Ngọc Hoàng Thượng Đế, vì phạm lỗi đánh rơi chén ngọc trong một buổi lễ chầu Thiên Đình nên bị đầy xuống trần gian thác sinh vào nhà họ Lê ở thôn Vân Cát, xã An Thái, huyện Thiên Bản, phủ Nghĩa Hưng (nay là huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định) mang tên là Giáng Tiên. Sau 3 lần trích giáng, Tiên Chúa được Ngọc Hoàng cho hạ giới mỗi khi Tiên Chúa mong muốn (trắc giáng phi thường). Sẵn có phép màu biến hóa, Tiên Chúa vân du ở khắp mọi vùng đất sơn thuỷ, kỳ tú, Tiên Chúa thường hoá phép trừng phạt kẻ ác, gia ân kẻ hiền. Người đã từng giúp đỡ các học trò nghèo như Cống Quỳnh (quê Hoằng Hoá, Thanh Hóa) trên đường ra Bắc đi thi; đã từng hoá phép dạy bảo dân chúng vùng Tam Điệp, Ninh Bình trồng dâu nuôi tằm, dệt vải; từng hoá phép nhờ Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan khởi dựng lại chùa Bắc Lễ, Đền Tiên (tỉnh Lạng Sơn); đã cùng đàm đạo thơ văn với Trạng Bùng, cử nhân họ Ngô và tú tài họ Lý ở Tây Hồ (Hà nội). Sau đó Tiên Chúa cưỡi mây, bay vào ẩn cư bên núi Sóc, tỉnh Nghệ An. Tiên Chúa Liễu Hạnh xuống trần không phải chỉ để mưu cầu hạnh phúc riêng cho mình, mà Tiên Chúa xuống trần để lĩnh một sứ mệnh thiêng liêng cao cả là khuyến thiện, trừ ác, ban phúc cho người tốt, giáng họa kẻ xấu, phò nước giúp dân. Và cũng vì thế, nhiều nơi trong cả nước đã lập đền thờ Mẫu. Trong hệ thống đền thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh tại Thanh Hóa, thì uy nghi và linh thiêng nhất vẫn là đền Sòng Sơn – nơi Thánh Mẫu hiển Thánh. Trải qua thời gian, cùng với sự phong phú về huyền thoại Liễu Hạnh Công Chúa, Đền Sòng trở thành nơi linh thiêng, nơi sinh hoạt tín ngưỡng không thể thiếu của người dân Bỉm Sơn cũng như nhân dân trên khắp mọi miền đất nước.
Đền Sòng Sơn tọa lạc trên một thế đất cao, tọa Đông Nam, hướng Tây Bắc, kiến trúc hình chữ Tam theo truyền thống đền thờ Việt Nam với 3 cung liên tiếp: Hậu cung (Chính tẩm), Trung Đường, Tiền Đường và ngoài cùng là cổng Tam quan. Cột của các gian điện thờ to gần nửa thước, đá tảng kê cao 6 tấc, trên các cột có nhiều câu đối nói về sự hiển linh và công đức của Thánh Mẫu, ca ngợi cảnh đẹp của Sòng Sơn. Phía trên, giữa các gian thờ đều được trang trí các cửa võng sơn son, thếp vàng. Cổng Tam quan cao đẹp cấu trúc hình chồng diêm với 3 cửa bằng gỗ trắc: (1) Cửa bên tả gọi là cửa Giới, qua cửa này được Thánh Mẫu ban dạy những điều giới Phật, nên làm điều thiện, tránh làm điều ác; (2) Cửa bên hữu là cửa Định, qua cửa này được nhà Thánh giúp cho tĩnh tâm, thanh lọc mọi điều phàm tục; (3) Cửa giữa là cửa Tuệ, qua cửa này mọi người được nhà Thánh ban cho sự sáng suốt, trí tuệ, mọi việc hanh thông. Qua cổng tam quan du khách lần lượt bước vào chiêm bái các cung thờ.
Cung đệ Nhất: Là cung tiền đường, đây là cung thờ Hội Đồng Thánh Quan, gồm các ban thờ: ban thờ Mẫu Cửu Trùng, ban thờ Quan Hoàng Bảy, ban thờ Hoàng Mười. Phía bên phải là ban thờ Đức Thánh Trần – Hưng Đạo Đại Vương.
Cung đệ Nhị: Qua cung tiền đường là cung đệ Nhị (cung Trung đường). Đây là cung thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế – vua cha của Tiên Chúa Liễu Hạnh. Bài trí ban thờ vua cha Ngọc Hoàng ở ngôi cao nhất, tiếp đến là các ban thờ Ngũ Vị Tôn Quan và Công Đồng Tứ Phủ. Hai bên các ban thờ là các bộ chấp kính, đôi hạc bằng đồng cao gần 2m. Hình thức bài trí ban thờ trong cung này thể hiện nét văn hoá phụng thờ gia tộc truyền thống Việt Nam.
Cung đệ Tam: Qua cung Trung đường là cung đệ Tam (Hậu cung chính tẩm – cung Cấm thâm nghiêm). Cửa ra vào cung Cấm ít khi được mở, trừ những ngày lễ rước Thánh Mẫu vào tháng 2 Âm lịch hàng năm. Ngày thường, con nhang, đệ tử và khách thập phương chỉ được đứng bên ngoài chiêm bái. Cung đệ Tam (Cung Cấm) có 3 gian, được bài trí theo thức hệ Tứ Phủ, Tam Tòa Thánh Mẫu. Không gian chính của cung Cấm được trải thảm đỏ. Gian giữa đặt ban thờ và linh tượng Thánh Mẫu Liễu Hạnh trong trang phục màu đỏ lộng lẫy, dáng ngồi uy nghi mà khoan dung, độ lượng. Tay trái đặt sấp trên gối, tay phải đặt ngửa, năm ngón tay chụm lại theo thế bắt quyết. Ngồi hai bên tả, hữu Thánh Mẫu là linh tượng hai tiên cô theo hầu, kích thước nhỏ hơn linh tượng Thánh Mẫu. Bên trái là tiên cô Quế Nương trong trang phục màu xanh, bên phải là tiên cô Nhị Nương trong trang phục màu hồng. Đây là hai tiên nữ được Ngọc Hoàng Thượng Đế phái xuống hầu cận Tiên Chúa Liễu Hạnh khi được Ngọc Hoàng cho Tiên Chúa giáng trần xuống vùng Phố Cát (Thạch Thành) và đây cũng là hai vị tiên nữ giúp cho người trần được ngưỡng giao với Tiên Chúa. Đặc biệt, trong gian giữa chính tẩm phía trên linh tượng Thánh Mẫu, có bức đại tự sơn son thếp vàng, với bốn mỹ tự “Mẫu Nghi Thiên Hạ” (Người Mẹ mẫu mực của muôn dân). Gian bên trái đặt ban thờ Mẫu Thoải (Mẫu cai quản sông nước) với linh tượng trong trang phục màu xanh, yếm trắng. Gian bên phải đặt ban thờ Mẫu Thượng Ngàn (Mẫu cai quản núi rừng) với linh tượng trong trang phục màu vàng, yếm đỏ.
Trong các cung thờ có hơn 40 bức hoành phi, câu đối, đại tự được cung tiến trong dịp trùng tu tôn tạo lại đền năm 1998 với nội dung suy tôn, ngợi ca công đức, sự linh thiêng của Thánh Mẫu và cảnh đẹp của vùng đất thiêng Sòng Sơn. Đặc biệt trong cung Cấm, ngoài bức đại tự “Mẫu Nghi Thiên Hạ” ở gian chính điện, gian bên tả có bức đại tự “Vạn Cổ Anh Linh” (Linh thiêng muôn thuở), gian bên hữu có bức đại tự “Sùng Sơn Hiển Thánh” (Hiển Thánh ở Sòng Sơn). Đáng chú ý nhất là câu đối ở hai cột gian giữa
“Sòng Sơn hiển tích thiên thu tại,
Thanh Hoá danh lam vạn cổ truyền”.
(Sòng Sơn dấu tích nghìn thu sáng,
Thanh Hoá danh lam muôn thuở còn)
Trước đền có một hồ nước tự nhiên hình bán nguyệt quanh năm xanh trong, tương truyền đó là hồ cá thần, hàng năm vào dịp tháng giêng, tháng hai, xuất hiện một đàn cá toàn thân màu đỏ lũ lượt kéo nhau bơi lội trong hồ, nhưng khi hết lễ hội thì đàn cá tự nhiên không thấy nữa. Nhân dân quanh vùng nói đó là các nàng tiên trên thượng giới hóa phép về hầu Tiên Chúa Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Qua cây cầu hình vòng cung vượt con suối nhỏ đến khu đồi bên cạnh là khu đền thờ Đức Thánh Trần – Hưng Đạo Vương uy nghi. Từ hồ cá thần có hai con suối nhỏ chảy lượn quanh khiến cho ngôi đền như ngự trên một hòn đảo nhỏ bồng bềnh giữa mây trời non nước.
Lễ hội Sòng Sơn – Ba Dội thường diễn ra từ ngày 24-26/2 âm lịch hàng năm. Phần lễ được tổ chức trang nghiêm với các nghi lễ rước Thánh Mẫu, cúng tế thu hút hàng ngàn người tham gia. Phần hội cũng khá phong phú với nhiều tiết mục đặc sắc mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc và sắc thái địa phương như biểu diễn văn nghệ hầu Quan Thánh, hầu văn do các bản hội trong vùng thể hiện. Sau phần lễ và hội ở đài lễ, nghi thức lễ rước bóng Thánh Mẫu được cử hành. Đoàn rước xuất phát từ lễ đài, dọc theo con đường thiên lý lên nhà bia Ba Dội. Kiệu vàng Thánh Mẫu là trung tâm của đoàn rước, đi sau hầu kiệu là hàng ngàn bà con nhân dân trong và ngoài địa bàn cùng các bản hội và du khách thập phương. Khi trời chính Ngọ cũng là lúc đoàn lên đến đỉnh Đèo Ba Dội, sau đó đoàn quay về dâng hương tại Đền Chín Giếng và xa giá hồi cung làm lễ vị hoàn tại Đền Sòng Sơn. Trong khuôn khổ lễ hội Đền Sòng Sơn – Ba Dội còn diễn ra nhiều hoạt động như: Hội thi hầu văn Thánh, cờ tướng, kéo co, thi nấu cơm,…
Đền Phố Cát
Trong hệ thống đa dạng, phong phú các đình, chùa, đền, miếu… trên mảnh đất xứ Thanh, có hai nơi gắn liền với huyền tích giáng trần của Thánh Mẫu Liễu Hạnh, đó là: đền Sòng Sơn (thị xã Bỉm Sơn) và đền phố Cát (thị trấn Vân Du, Thạch Thành). Đây là những ngôi đền thiêng, nơi đông đảo du khách thập phương tìm về chiêm bái, gửi gắm mong cầu, ước nguyện. Chính vì vậy mà trong dân gian hiện nay vẫn còn lưu truyền câu ca dao về sự linh thiêng của đền như sau: “Đền Sòng thiêng nhất xứ Thanh/ Thứ nhì phố Cát, thứ ba đền Hàn”. Đền Sòng Sơn là nơi Thánh Mẫu Liễu Hạnh hiển thánh và Đền Phố Cát là nơi Mẫu giáng trần tại phố Cát, thị trấn Vân Du, huyện Thạch Thành, một nơi phong cảnh hữu tình, địa thế thuận lợi, đúng như những câu hát chầu văn mượt mà, mời gọi lòng người:
“Khách thập phương tới Đền Phố Cát
Ngắm non sông bát ngát một vùng
Chín tầng thác dội lòng trong
Cây đa trước miếu cá vùng kín khe
Nhìn non nước bốn bề như vẽ…”.
Trong bài viết “Phố Cát” (Thanh Hóa – Di tích và thắng cảnh, NXB Thanh Hóa), tác giả Phạm Tấn khảo tả chi tiết về ngôi đền thiêng này: Đền Phố Cát nằm ở lưng chừng núi, có thế đất tay ngai. Phía trước đền có 3 ngọn núi gọi là tam thai án ngữ như một bức bình phong, các ngọn núi khác được nhân dân dựa theo đặc điểm cụ thể mà đặt tên như: núi cây Trôi, núi Long, núi Ly, núi Hổ, núi Vực Voi,… Gần đền có một dòng suối nhỏ êm đềm nước chảy. Đến trước cửa đền, dòng suối tạo thành một vụng như một cái hồ nhỏ, cá bơi thành đàn, tựa như suối cá thần ở Cẩm Thủy. Cứ đến mùa xuân, cá lớn bơi đi đâu hết, và từng đàn cá con lại về như là có phép lạ. Mỗi mùa lễ hội tại đền, cá lớn lại về khiến cho ngôi đền càng thêm độc đáo, nhuốm màu tâm linh, huyền bí. Tại suối cá có xây dựng một lầu bát giác, thường gọi là “lầu Vọng Ngư”.
Trong thế tay ngai của dãy núi, tổng hòa kiến trúc Đền Phố Cát gồm 4 công trình độc lập từ thấp lên cao gồm: sân rộng với nghinh môn 8 mái rồi đến cung Đệ Tam, cung Đệ Nhị, cung Đệ Nhất. Xung quanh là tường hoa bao bọc. Mỗi cung có 3 gian thông, hai gian hai đầu cung đệ Nhị và cung đệ Tam là đường lên xuống liên hoàn giữa các cung, bên trong các cung là đồ thờ. Bên cạnh công trình chính là nhà Quan cư (Nhà khách). Cổng Tam quan 2 tầng 8 mái, lầu vọng ngư, tường hoa, cây cảnh, cầu cong bằng đá bắc qua suối để khách bộ hành đến Đền Quan Giám và đi vào khu vực Đền Bùi. Tất cả đều là kiến trúc của thời Nguyễn giống như ở phủ Dầy và đền Sòng. Trải qua biến thiên thời gian, thăng trầm lịch sử, Đền Phố Cát bị bom đạn tàn phá, chỉ còn lại nền móng và một số hạng mục như: Tam Quan, lầu Vọng Ngư, cầu cong bằng đá bắc qua suối, bia ký…
Mỗi năm, Đền Phố Cát mở hội một lần từ ngày 18-1 đến 3-3 âm lịch, kéo dài gần 2 tháng. Đây là lễ hội truyền thống, tiêu biểu cho tín ngưỡng thờ Mẫu trên đất Thạch Thành nói riêng, tỉnh Thanh Hóa nói chung. Không gian thờ tự bên trong đền là nơi tổ chức lễ bái, thượng đồng, dâng lễ do các hội từ thập phương về tín lễ. Phần hội sôi nổi, phong phú các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể thao, trò chơi dân gian như: cờ tướng, đu tiên,… Đặc sắc nhất của lễ hội Đền Phố Cát là rước sắc. Theo tài liệu ghi chép lại, trước khi vào ngày hội chính, làng tổ chức rước sắc bát hương Thánh Mẫu từ đền chính ra đền Đức Ông, sau khi lễ bái xong lại rước về đền chính. Trong quá trình rước sắc có đánh trống, múa lân. Khi sắc về đền thì đưa sắc vào cung cấm. Quy mô rước trang trọng hơn, nghi trượng nhiều và đẹp, ngoài lọng vàng thì ở đây còn có tán vàng, tán tía, kiệu tám đòn; có ông đồng, bà cốt mặc áo ngự, chít khăn chầu, hát văn,… Những trai tráng mang nghi trượng, cờ, trống, chiêng, tráp kích, gươm trường, dùi đồng, phủ việt, kiệu lọng,… đều mặc áo nẹp, chít khăn như kiểu lính thời phong kiến. Sau kiệu là các cụ quan viên, quần chùng, áo dài, khăn xếp. Đám rước kiệu, cờ tán lộng ngợp trời, trống chiêng vang vọng một vùng. Đoàn rước càng đi càng đông vì thế mà càng thêm khí thế, lan tỏa.
Đền phố Cát không chỉ là điểm tham quan, du lịch văn hóa tâm linh tiêu biểu. Hơn hết, đây là niềm tự hào, khẳng định thêm vai trò, vị thế của xứ Thanh trong dòng chảy văn hóa Việt.
Phủ Tây Hồ
Phủ Tây Hồ nằm trên bán đảo lớn giữa Hồ Tây, thuộc phường Quảng An, quận Tây Hồ, Hà Nội. Theo truyền thuyết, Thánh Mẫu Liễu Hạnh giáng sinh đến ba lần để trải nghiệm các cung bậc của đời người. Từ lần thứ ba trở đi, Bà hóa thân cùng với Nhị Vị Thánh Chầu là Quỳnh Hoa và Quế Hoa đi chu du khắp nước. Khi qua Hồ Tây, thấy đây là nơi sơn thủy hữu tình, Thánh Mẫu bèn lưu lại mở quán nước có tên “Tây Hồ Phong Nguyệt”, làm cớ vui thú văn chương và tìm kiếm hiền tài. Trạng nguyên Phùng Khắc Khoan (1528-1613) trong lần đi thuyền trên hồ, thấy cảnh đẹp, bèn ghé vào quán. Gặp nhau tâm đầu ý hợp, họ cùng vịnh bài thơ “Tây Hồ ngự quán” mà nay vẫn mãi lưu truyền. Về sau, khi Phùng Khắc Khoan trở lại tìm thì không thấy quán và người, bèn cho lập đền thờ người tri âm. Tại Việt Nam, nơi thờ thần, thánh được gọi là đền, song những nơi liên quan trực tiếp tới Thánh Mẫu Liễu Hạnh thì được dân gian gọi là Phủ.
Phủ Tây Hồ Hà Nội nằm trên một diện tích không lớn, lại mang đầy đủ chức năng của công trình thờ tự Đạo Mẫu, nên các công trình có bố trí đan xen nhau. Phủ Tây Hồ hiện tại có bố cục theo hướng Tây ra phía hồ, gồm các hạng mục công trình chính: Nghi môn ngoại, Nghi môn nội, Điện thờ, Lầu Sơn Trang, Am Cô, Am Cậu và các công trình phụ trợ khác trong Đạo Mẫu Tam Phủ.
Phối cảnh tổng thế không gian chính Phủ Tây Hồ
Nghi môn ngoại và Nghi môn nội Phủ Tây hồ gắn với con đường đi bộ ven hồ Tây tới Phủ. Nghi môn ngoại là lối vào Phủ, là một Tam quan với 3 khối cổng, được giới hạn bởi 4 trụ biểu. Hai trụ biểu chính, đỉnh trụ trang trí tứ phượng. Hai trụ biểu nhỏ hai bên, đỉnh trụ trang trí con nghê chầu. Cả 4 trụ biểu đều có thân trụ phía trên trang trí các ô lồng đèn, giữa là ô trang trí câu đối, đế thắt dạng cổ bồng. Cả 3 khối cổng đều cao 2 tầng. Tầng 2 có mái chồng diêm 2 tầng, 8 mái.
Nghi môn ngoại phủ Tây Hồ
Nghi môn nội nằm sát ngay Điện thờ, là lối ra khỏi Phủ. Nghi môn chỉ có một cổng ra vào, được giới hạn bởi 4 trụ biểu. Vòm cổng được giới hạn bởi hai trụ biểu chính, đỉnh trụ trang trí tứ phượng. Hai trụ biểu nhỏ hai bên, đỉnh trụ trang trí con nghê chầu. Cả 4 trụ biểu đều trang trí như 4 trụ biểu tại Nghi môn ngoại. Giữa của hai trụ biểu chính và phụ là mảng tường đắp phù điêu hổ và rồng. Khối cổng chính cao 2 tầng. Tầng 2 có tường bao 4 phía trổ lỗ tròn, 4 mái.
Nghi môn nội Phủ Tây Hồ
Điện thờ gồm 2 công trình đặt song song với nhau: Tiền đường và Chính điện. Tiền đường 3 gian. Phía trước Tiền đường có một hàng hiên được trang trí như một cổng Tam quan (hiên Tam quan) với các trụ biểu, vòm cổng,… Chính giữa Tiền đường nhô lên một lầu với mái chồng diêm 2 tầng, 8 mái. Đây là kiểu dáng được cho là phỏng theo kiến trúc đạo giáo Trung Quốc. Chính điện có mặt bằng hình “chữ đinh” hay chữ T, gồm tòa Bái đường và tòa Hậu đường đặt dọc. Tòa Bái đường 3 gian, đầu hồi bít đốc, 2 mái, phía trước có một mái hiên kết nối với với tòa Tiền đường. Tòa Hậu đường 3 gian, mái 2 tầng, 4 mái. Dọc theo Điện thờ có một dãy Tả vu như một hành lang phục vụ cho việc đi lại của khách đến lễ phủ.
Tiền đường Phủ Tây Hồ
Điện thờ đặt các ban thờ Tam Phủ Công Đồng theo nghi lễ Đạo Mẫu. Lớp ngoài cùng, tại Tiền đường là ban thờ Tam Phủ Công Đồng, gồm Vua Cha Thiên Phủ – Ngọc Hoàng Thượng Đế, hai bên là Quan Nam Tào và Quan Bắc Đẩu; Phía dưới là hàng Ngũ Vị Tôn Quan rồi đến Quan Hoàng Bảy, Quan Hoàng Mười, hội đồng các Quan.
Ban thờ Tam Phủ Công Đồng tại Tiền đường Phủ Tây Hồ
Lớp giữa tại Hậu cung là ban thờ Tam Tòa Thánh Mẫu, có cửa võng đề “Tây Hồ phong nguyệt” và đôi câu đối ca ngợi Thánh Mẫu Liễu Hạnh; lớp trong cùng tại Hậu cung là nơi đặt tượng của Thánh Mẫu Liễu Hạnh và hai hầu cận là Chầu Quỳnh, Chầu Quế. Trên cao là bức đại tự “Thiên Tiên Trắc Giáng” và “Mẫu Nghi Thiên Hạ”.
Ban thờ Tam Tòa Thánh Mẫu tại Hậu cung Phủ Tây Hồ
Ban thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh tại Hậu cung Phủ Tây Hồ
Phủ Tây Hồ có một sân trong rộng, 3 mặt là Điện thờ, lầu Sơn Trang và nhà khách, mặt kia mở ra Hồ Tây. Lầu Sơn Trang nằm bên trái Điện thờ, nằm tại mặt Đông của sân trong. Lầu Sơn Trang 3 gian, mái chồng diêm, 2 tầng, 8 mái. Ban thờ có 2 tầng: Tầng trên thờ Quan Thế Âm Bồ Tát, hai bên có Kim Đồng, Ngọc Nữ hầu cận. Tầng dưới, gian giữa là ban thờ Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn; hai gian hai bên thờ Nhị Vị Vương Bà, hóa thân của Mẫu Thượng Ngàn; 12 vị Chầu Bà; tổng cộng là 15 vị.
Lầu Sơn Trang Phủ Tây Hồ
Ban thờ Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn trong lầu Sơn Trang, Phủ Tây Hồ
Trên bề mặt Nghi môn ngoại, Nghi môn nội, Điện thờ, lầu Sơn Trang của phủ Tây Hồ có nhiều bức đắp nổi tinh tế theo các chủ đề tứ linh, tứ quý. Bên trái lầu Sơn Trang có một tòa nhà khách. Phía ngoài sân phủ, phía trước tòa Tiền đường có hai am nhỏ thờ Cô và Cậu. Tại sân trong phủ có giá để chuông, một cây si cổ thụ, đã được công nhận là “cây di sản Việt Nam”.
Phủ Tây Hồ hiện còn lưu giữ được một khối lượng di vật khá phong phú, mang giá trị lịch sử, văn hóa, nghệ thuật thuộc thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 như bộ tượng tròn gần 300 pho, hoành phi, câu đối,… Phía Bắc, sát Phủ Tây Hồ là đền Kim Ngưu (đền Trâu Vàng).
Lầu Cô, Lầu Cậu đặt phía trước Điện thờ Phủ Tây Hồ Hà Nội
Đền Thánh Mẫu Liễu Hạnh Đèo Ngang
Dọc đường thiên lý Bắc – Nam, qua địa phận Đèo Ngang nối Hà Tĩnh với Quảng Bình (khi xưa gọi là cửa ngõ xứ Đàng Trong) có một ngôi đền nhỏ được coi là linh thiêng bậc nhất đất Quảng Bình. Đó là đền Thánh Mẫu Liễu Hạnh tọa lạc bên đường quốc lộ ngay chân Đèo Ngang thuộc thôn Vĩnh Sơn, xã Quảng Đông, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.
Sự tích kể rằng, từ thuở xa xưa, người Việt vào Nam ra Bắc trên bộ duy nhất chỉ có một con đường cái quan hiểm trở. Dọc đường thiên lý đó, dãy Trường Sơn tới Quảng Bình thì rẽ một nhánh chạy ngang ra biển gọi là Hoành Sơn; trên đó Đèo Ngang với Hoành Sơn quan vừa là cửa ngõ của xứ Đàng Trong, cũng là điểm dừng chân để các bậc tao nhân mạc khách làm thơ, họa cảnh trước vẻ đẹp của non sông gấm vóc, tự hào về kỳ quan thiên nhiên đất nước mình. Tại chân Đèo Ngang phía địa phận tỉnh Quảng Bình, bên con đường mòn, từ xa xưa đã tồn tại một ngôi miếu nhỏ. Đó là miếu thờ Công Chúa Liễu Hạnh – là một nhân vật trong Tứ Bất Tử huyền thoại của văn hóa dân gian Việt Nam. Sự tồn tại của ngôi Miếu từ hàng trăm năm qua với giai thoại truyền về công chúa Quỳnh Hoa con gái Ngọc Hoàng sơ ý phạm lỗi mà bị vua cha đọa xuống hạ giới. Dưới hạ giới, dù bị coi là chịu án phạt lưu đày nhưng nàng đã dầy công giúp dân, vì nước, tích phước đức nên sau khi mất, nàng được nhân dân tôn kính lập đền thờ Bà Chúa với tên là Liễu Hạnh ở nhiều nơi. Tại Đèo Ngang, đền thờ Đức Thánh Mẫu Liễu Hạnh là một trong những di tích sớm nhất, huyền thoại lưu truyền cùng với ngôi Miếu này tới bây giờ. Đền thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh nằm bên dãy Hoành Sơn cũng là nơi ghi dấu cho sự tích giáng trần của bà tại đây.
Phần ban thờ còn lại của không gian hậu cung Đền Thánh Mẫu Liễu Hạnh trước khi trùng tu năm 1993.
Ngôi đền tuy không quá đồ sộ nhưng vẫn đậm chất mỹ quan Á Đông và bảo lưu được bản sắc văn hoá dân tộc. Toàn bộ kiến trúc của đền được sắp xếp một cách cân đối từ thấp đến cao theo một trục dọc, tạo nên nét trang nghiêm của Đền Liễu Hạnh Công Chúa. Lối bố trí đối xứng được thể hiện rất rõ ngay từ cổng Tam quan.
Ngôi đền dựa lưng vào dãy Hoành Sơn hùng vĩ
Vào bên trong đền, du khách sẽ được chiêm ngưỡng tứ linh gồm Long, Lân, Quy, Phụng; tứ thủ là Cầm, Kỳ, Thi, Họa; tứ quý là Tùng, Trúc, Mai, Sen; cùng nhiều biểu tượng cúc hóa long, mai hóa long, tùng hoá long khác. Các chi tiết được chế tác vô cùng tinh tế và được bày trí hài hoà với bố cục chung. Tất cả tạo nên nét độc đáo của ngôi đền và ẩn sau đó là khát vọng vươn tới những giá trị tốt đẹp, hướng đến chân – thiện – mĩ.
Cung thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh
Đền thờ Mẫu Liễu Hạnh tại Đèo Ngang chính là minh chứng hùng hồn cho sự tích về Liễu Hạnh công chúa, đóng góp một phần quan trọng trong lịch sử phát triển của dòng tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Từ bao đời nay, ngôi đền này có tiếng linh thiêng, ai qua lại nơi này thường vào thắp hương đều được bình an, cầu gì được nấy.
Ngày khánh tiệc Thánh Mẫu Liễu Hạnh
Lễ hội Phủ Dầy Nam Định hàng năm được tổ chức vào ngày 03 tháng 03 âm lịch, đó là ngày hóa của Mẫu, để cầu cho quốc thái dân an, mọi gia đình an khang thịnh vượng.
Phủ Quảng Cung ở Ý Yên, Nam Định, Phủ Đồi Ngang, Đền Dâu, Đền Quán Cháo ở phòng tuyến Tam Điệp (Ninh Bình), Phủ Sòng Sơn ở Thanh Hoá cũng đồng thời tổ chức lễ hội vào dịp đầu năm này và thường kéo dài vài tuần lễ.
Riêng lễ hội Phủ Dầy còn gắn liền với chợ Viềng của Mẫu họp vào ngày 7 tháng Giêng đầu năm rất đông vui nhộn nhịp.
Nói chung, các đền thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh, vào những ngày lễ Tết, ngày Rằm, mồng Một âm lịch, đều rất đông người đến kính lễ.
Đạo sắc phong Thánh Mẫu Liễu Hạnh tại chùa Quỳnh Sơn Bắc Giang
Chùa Quỳnh Sơn nơi đang lưu trữ đạo sắc phong Thánh Mẫu Liễu Hạnh là địa danh thuộc xã Quỳnh Sơn, huyện Yên Dũng tỉnh Bắc Giang, là một trong số ít ngôi chùa cổ trên địa bàn tỉnh còn lưu giữ được đạo sắc phong cổ được xem là di sản văn tự cổ về tín ngưỡng thờ Mẫu ở Bắc Giang hiện nay. Chùa Quỳnh Sơn là công trình tôn giáo tín ngưỡng theo lối tiền Phật hậu Mẫu đặc trưng của các ngôi chùa miền đồng bằng Bắc bộ, được xây dựng từ lâu đời, sang thời vua Lê Trung Hưng (thế kỷ XVIII) và những năm sau này được tu sửa khang trang hơn với lối kiến trúc theo kiểu chữ đinh cổ truyền thống.
Quang cảnh chùa Quỳnh Sơn với cây hoa đại trăm tuổi, nơi lưu giữ đạo sắc phong cổ về Thánh Mẫu Liễu Hạnh
Trong chùa còn lưu giữ nhiều tài liệu, hiện vật có giá trị lịch sử văn hoá và giá trị nghệ thuật cao như hệ thống tượng Phật cổ, đặc biệt còn lưu giữ được ba pho tượng Mẫu cổ được tạc theo lối kiến trúc thời Nguyễn. Tại nơi đây vào năm 1783, chùa đã được vua Lê Hiển Tông ban tặng một đạo sắc phong Thánh Mẫu Liễu Hạnh với nội dung:
“Sắc cho Đế Thích Tiên Đình chứa muôn vàn điều tốt, giữ quyền cai quản lục quan. Mị Nương được gọi tên hiệu là Liễu Hạnh, là người thông minh tài trí, có nhiều phép thuật, biến hoá khôn lường cùng với Chưởng quản Sơn Tinh cai quản các miền rừng núi. Đã được triều đình ban cho các mĩ tự: Tề Gia Trị Quốc, Hộ Sĩ Cẩn Tiết, Hoà Mĩ Đoan Trang, Quang Mục Nhân Minh, Thuần Mĩ Nhàn Tĩnh, Trinh Nhất Diệu Hoá, Đoan Dung Đạt Hạnh, Diệu Thông Mẫn Cảm, Phổ Tế Trinh Thục, Thuần Nhất Trang Thuận Chân Tiên. Được sắc phong ban cho danh hiệu: Chế Thắng Hoà Diệu Đại Vương. Tề Mị Huyền Linh Hiển Ứng Công Chúa. Người vừa là bậc thần tiên trên trời vừa là bậc Thánh Mẫu ở trần gian có thể biến ảo khắp mọi nơi, toả chiếu ánh sáng đến mọi phương, cùng cảm thông giúp đỡ những điều tốt, luôn tỏ ra linh ứng vô cùng, đã để lại dấu tích vẻ vang lừng lẫy đáng được ngợi khen, phong tặng danh hiệu, ghi trong sử sách. Người được các triều vua tiến phong danh hiệu vẻ vang, ngôi vị được thờ trong Phủ chính để giúp đỡ nhân dân mọi nơi được bình yên phát triển, đất nước được phồn vinh mà vững bền mãi mãi. Vậy nên ban sắc phong!”.
Nguyên bản Đạo sắc phong Thánh Mẫu Liễu Hạnh
Sắc phong được làm bằng chất liệu giấy dó mỏng có màu vàng nhạt theo lối cổ truyền thống cung đình, với kích thước khoảng 133cm x 53cm. Trên sắc phong có triện dấu ấn của nhà vua. Với nội dung về sắc phong đã giúp chúng ta hiểu biết thêm về Thánh Mẫu Liễu Hạnh, vị thần chủ trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt.
Bản văn Đức Thánh Mẫu Liễu Hạnh
Bản văn thứ nhất – Vân Cát Tam Thế Thực Lục Quốc Âm
Khi nhàn tựa án thảnh thơi,
Ngẫm xem tam thế luân hồi lạ thay.
Quả tu khéo tại lòng này,
Hoá sinh sinh hoá xưa nay ai tường.
Vẹn sao hai chữ cương thường,
Tiên nhân Phật quả lưu phương dõi truyền.
Nhớ xưa ở huyện Đại Yên,
Xã là Trần Xá về miền Nghĩa Hưng.
Đương năm Cảnh Thịnh sơ hưng,
Cải làng Vỉ Nhuế phỏng chừng tam niên.
Thôn Quảng Nạp hiệu Huyền Viên,
Phạm gia tích đức bách niên đã nhiều.
Xưa làm Phó sứ thiên triều,
Khâm sai tra sổ phải điều bất công.
Bút son vâng mệnh đền rồng,
Giáng Trần Xá xã thôn trung đất lành.
Đất này tú khí chung linh,
Lâu đài cổ tích xung quanh cũng kỳ.
Chỉn e tử tức còn trì (chầy),
Trai đàn mong được sau khi nối đời.
Đêm ngày khấn Phật cầu Trời,
Kim Tinh Thái Bạch tới nơi tâu rằng.
Có nhà rày ở dưới trăng,
Thái bà Phạm lão tin nhằm có thai.
Ngọc Hoàng mở sổ ra coi,
Phạm ông ngày trước vốn người thiên cung.
Bởi vì giữ phép không công,
Vậy nên giáng trích vào vòng nhân gian.
Một đời rồi lại tái hoàn,
Nay xin cầu tự thời bàn làm sao.
Có quan Bắc Đẩu Nam Tào,
Sổ cầm chu mặc ghi vào tính danh.
Tâu rằng xin chút gái lành,
Kẻo cơ nghiệp ấy sau dành cho ai.
Đức vua nghe nói êm tai,
Truyền đòi công chúa thứ hai lên chầu.
Khuyên con giáng thế ít lâu,
Hỡi quan văn vũ cùng nhau hiệp bàn.
Tâu rằng đội đức thiên nhan,
Non cao bể rộng khôn toan cưỡng lời.
Công chúa tâu lạy mấy lời,
Hóa sinh sinh hóa kiếp người kiếp tiên.
Kiếp này là kiếp tiền duyên,
Ghi lòng để dạ chép biên đời đời.
Thần thông biến hoá mọi nơi,
Trước Nga Hoàng giáng vốn người tiên cung.
Ngọc nữ thăng lệnh chỉ truyền,
Vâng lời tấu đến điện tiền vua cha.
Khấu đầu lạy trước thềm hoa,
Lạy bà hoàng hậu chính toà vừa thôi.
Gửi truyền văn vũ mấy lời,
Thờ vua phải giữ lòng thời chỉ trung.
Còn tiên lạy trước ngai rồng,
Tâu rằng cho xuống độ vòng bao nhiêu.
Thấy con nói hết mọi điều,
Bút son đề chữ linh tiêu lên đầu.
Thông minh linh ứng dài lâu,
Tứ phương lai cộng Phật đầu Dần niên.
Sênh ca đàn sáo đôi bên,
Dập dìu phượng liễn xuống miền dương gian.
Phạm ông khi ấy thanh nhàn,
Màng màng giấc mộng đoàn đoàn tiên nga.
Khí thiêng sực nức mùi hoa,
Sao mai thấp thoáng trời đà vầng đông.
Thái bà chuyển động tâm trong,
Quế lan ngào ngạt sen hồng nở hoa.
Huệ hương dâng khắp đầy nhà,
Giáng sinh mồng sáu tháng ba giờ Dần.
Nhãn quang lóng lánh tinh thần,
Mày ngang vành nguyệt da ngần vóc sương.
Má đào môi hạnh phi phương,
Giá so tố nữ tiên nương khôn bì.
Phú ông xem thấy dị kỳ,
Giáng thần ứng hiện đặt thì Tiên Nga.
Yêu như ngọc dấu như ngà,
Nâng châu rốn bể hứng hoa lưng trời.
Màn the trướng gấm thảnh thơi,
Thâm khuê dưỡng dục khác vời tiên cung.
Ngũ chu thiên tính đà thông,
Thử xem nề nếp cũng dòng phú gia.
Chạnh lòng nghĩ đến gần xa,
Nay tuy đã vậy sau đà sao đây.
Năm lên mười tuổi khôn thay,
Một niềm hiếu thuận nết hay ai tày.
Thung huyên sớm mỏng tối dày,
Quạt nồng đắp lạnh đêm ngày vào ra.
Tôn thân thượng mục hạ hoà,
Lời ăn tiếng nói nhu hoà khoan dung.
Đủ điều ngôn hạnh công dung,
So xem cốt cách khác trong trần này.
Đua chen kẻ tớ người thầy,
Ra vào hầu hạ đêm ngày tựa nương.
Tới tuần tam ngũ phi phương,
Bạn tần khách tấn ngổn ngang đầy nhà.
Thái ông ướm hỏi dò la,
Chiêu thân sớm định để già tâm khoan.
Nào ai dưới gối thừa hoan,
Nay con riêng phải lo toan việc nhà.
Chúa rằng đội đức sinh ra,
Ơn đà bể rộng nghĩa đà non cao.
Hổ con chút phận thơ đào,
Hình lâm tử tức tiêm vào phu quân.
Cuộc đời như thể phù vân,
Thân tiên buộc lấy duyên trần làm chi.
Nhớ khi nuôi nấng phù trì,
Nghĩ sao báo đáp ơn nghì cho phu.
Con xin dốc chí đường tu,
Triêu sớm ban tối di du vui cùng.
Mặc ai mối điệp tin ong,
Mặc ai lá thắm chỉ hồng bạn duyên.
Khi xưa phẩm cách người tiên,
Lẽ nào nỡ để hồng liên bùn lầm.
Thái ông nghe nói mừng thầm,
Hay là Đức Phật Quan Âm thân tiền.
Thôi chi nói sự trần duyên,
Dù con trong sạch giá tiên mặc lòng.
Đào viên then khoá kín phong,
Giữ điều trinh tiết kính cung tiên đường.
Vá may canh cửi việc thường,
Rộng ơn thí xả bốn phương dân cùng.
Nền nhân xây đắp dốc lòng,
Khói hương thấu đến cửu trùng cho thông.
Dần dần nhị kỉ ngũ đông,
Thung đường phút đà xe rồng lên chơi.
Ngán thay dưới đất trên trời,
Một người mà gánh hai vai thâm tình.
Báo ơn tứ đức sinh thành,
Gần xa ai kẻ nức danh nữ tài.
Cư tang năm mới được hai,
Huyên đường hạc giá bay khơi lên ngàn.
Thân tiên bao quản tân toan,
Một mình khôn biết rằng bàn sao xong.
Bèn mời lân lý hương trung,
Kẻ thăm người viếng tây đông đầy nhà.
Thôn trung có kẻ lão già,
Thấy người thơ ấu nết na thương vì.
Năm thường dậy sớm luân di,
Hiếu trung hai chữ sau thì ắt nên.
Công chúa quì xuống thưa lên,
Trình rằng ơn nặng dám quên sau này.
Thôn trung thu xếp ra tay,
Hạ tuỳ thượng xướng việc nay chu toàn.
Đưa người yên xuống hoàng tuyền,
Mặc nàng coi sóc báo đền công xưa.
Chăm coi bao quản nắng mưa,
Gọi là chút báo tóc tơ sinh thành.
Thương thay thiên đạo bất bình,
Trăm năm để giận một mình khấu công.
Ba năm lòng những dặn lòng,
Nào ai khuya sớm đà cùng việc đây.
Đến tuần tứ cửu làm trai,
Đại đàn bố thí bẩy ngày bẩy đêm.
Lòng thành thấu đến cửu thiên,
Kim Tinh Thái Bạch tâu lên ngai vàng.
Tâu rằng ở dưới dương gian,
Nơi bà công chúa Đại An tâu rày.
Cù lao chín chữ thương thay,
Trông ơn Thượng Đế xá rày siêu sinh.
Ngọc Hoàng việc ấy đã minh,
Đem bộ trắc giáng đế đình mà tra.
Phán rằng đệ nhị Tiên Nga,
Bấy lâu sao vắng đại la quảng hàn.
Triều đình tâu trước thiên nhan,
Tâu còn kỉ nữ tái hoàn tiên cung.
Ngày nay tang tóc đã xong,
Một mình coi sóc ngoài trong xa gần.
Năm qua tháng lại lần lần,
Phong quang đã khác tiền nhân đó rồi.
Công chúa tỉnh giấc bồi hồi,
Tam tinh mộng thấy tới nơi doành doành.
Tâu rằng người ở động đình,
Vâng đem ngọc bảo kim tinh lai phù./.
Bản văn thứ hai – Vân Hương Thánh Mẫu sự tích văn
Bỉ cách:
Tiên nhân Thần nữ cõi nam thiên
Tam thế giáng sinh sử dõi truyền
Đại Yên, Trần Xá dòng Phạm Thị
Tiên Hương Vân Cát ấy lương duyên
Sòng Sơn Phố Cát phen đại chiến
Đông Thành Kẻ Sóc nối dây duyên
Anh linh hiển hách phù Nam Việt
Chế Thắng tặng phong tối linh thiêng
Miễu cách:
Cảnh non tiên vân đài ngọc các
Chốn Quảng Hàn ngào ngạt hương đưa
Linh Tiêu chính ngự đế đô
Ngai rồng lồ lộ Đức Vua Ngọc Hoàng
Sân đan quế bách quan văn võ
Tiệc long đình yến vũ oanh ca
Đàn cầm dạo khúc ngân nga
Bách tiên chầu chực dâng hoa đôi hàng
Lầu bích ngọc vân quang choi chói
Cửa quỳnh đài nhang khói trang nghiêm
Càn khôn thụy khí hạo nhiên
Cửu cung bát quái đôi bên trướng rồng
Cõi nhân gian tấc lòng như nhất
Lập trai đàn phẩm vật tiến dâng
Hương hoa kiều thỉnh thành tâm
Đệ trình sớ điệp trước sân quỳnh đài
Trên chín bệ long ngai lồ lộ
Sớ dâng trình kích cổ tam thông
Đức Vua giá ngự ngai rồng
Án thư chấp bút sớ hồng ngự xem
Trấn Sơn Nam trong miền Phủ Nghĩa
Quảng Nạp thôn, Trần Xá, Đại Yên
Phạm công tên hiệu Huyền Viên
Nhân từ đức độ vẹn tuyền không sai
Nghĩa trăm năm duyên hài phối thất
Phạm thái bà, Thuần Nhất tự danh
Chỉ hiềm cây ngọc lá xanh
Nụ hoa chưa hé trên cành lẻ loi
Hào tử tức đương thời hiếm muộn
Nỗi ưu buồn thấu chốn thiên thanh
Đức Vua thấu rõ sự tình
Mới bèn tra sổ phân minh tỏ tường
Phạm thái công vốn dường tiên giới
Giáng cõi phàm cũng bởi nhân duyên
Kíp hay có lệnh ban truyền
Phán đòi công chúa Hồng Liên vào chầu
Lời vàng ngọc cơ màu vừa dứt
Sổ Nam Tào bút ngọc chép biên
Tiên Nga lạy trước điện tiền
Quỳ tâu Thánh Đế truớc thềm trướng hoa
Lạy Vương Mẫu chính toà hậu chủ
Kinh quần thần văn vũ vừa thôi
Quần tiên tấu đối đôi lời
Rằng Tiên giáng hạ độ thời bao lâu
Đức Thượng Để điểm châu ngũ tự
“Tứ Phương Lai Cúng Phật” thủ tiên
Hào quang chiếu tỏ cửu thiên
Phượng xa, lọng tía xuống miền trần gian
Cửa thiên môn đôi hàng tiên tử
Tiếng nhạc thiều nhắn nhủ tiễn đưa
Thống cách:
Cành thanh ai vẽ non tơ
Ngàn xanh mây thắm nhởn nhơ bầu trời
Gió thoang thoảng đượm mùi hoa huệ
Báo tin mừng nguyệt quế khai hoa
Giáng sinh mồng sáu tháng ba
Vẻ thanh dáng ngọc dà dà tóc tiên
Nét tinh tú thiên nhiên phẩm chất
Đoá hoa quỳnh nhan sắc khôn so
Hoàng anh cất tiếng líu lo
Đào hoa đua thắm ngẩn ngơ nỗi niềm
Đôi thung huyên vui mừng khôn xiết
Ngẫm Phật Trời thấu biết lòng ta
Đặt tên công chúa Tiên Nga
Mình vàng vóc ngọc nết na dịu dàng
Đức hiếu thảo lại càng gìn giữ
Đấng song thân ví tựa non cao
Ngày đêm khuya sớm ra vào
Quạt nồng ấp lạnh tơ hào chẳng sai
Tuần tam ngũ duyên hài đã tới
Đôi thung huyên ướm hỏi chiêu thân
Chúa rằng ơn đức song thân
Người Tiên vướng bận duyên trần làm chi
Công dưỡng dục sớm khuya đền đáp
Trọn chữ tòng non hạc cao xanh
Phạm ông nghe tỏ tâm tình
Ngẫm thời Bồ Tát giáng sinh hiện tiền
Lẽ trần duyên đâu thời gượng ép
Chốn khuê phòng cửa khép rèm che
Mặc ai ong bướm đi về
Lòng trinh gìn giữ phu thê chẳng màng
Bình cách:
Chữ tử sinh mây ngàn hạc lánh
Để thung đường về cảnh tây phương
Xót xa biết mấy cảm thương
Nhị niên, thân mẫu cũng dường cách xa
Cánh chim bay phút đà thăm thẳm
Gánh hai vai nghĩa nặng tình thâm
Từ nay vắng bóng song thân
Cỏ hoa rặng liễu tần ngần xót thương
Suốt năm canh đêm trường thảm thiết
Ngày quên ăn vẻ nguyệt xót xa
Ngẫm chăng thế sự cũng là
Trách chi con tạo bởi ra nỗi này
Vậy cơ nghiệp từ đây coi sóc
Việc trong ngoài cơ mực đảm đang
Đại Yên, Vỉ Nhuế danh vang
Nữ trung nghiêu thuấn lại càng nết na
Ngày mồng hai tháng ba định nhật
Chim hót mừng cảnh vật xôn xao
Bỗng đâu gió thổi ào ào
Tường vân ngũ sắc ngạt ngào ánh hoa
Nay mãn hạn loan xa rước đón
Giở gót hài về chốn tiên cung
Trước vào bái yết bệ rồng
Sau thời dạo gót Quảng Cung mọi toà
Chốn quỳnh lâu yên hà thắng cảnh
Điện tam thai thất bảo long lanh
Đôi bên long phụng đua tranh
Có hồ thanh thuỷ có thành lưu ly
Điện Linh Tiêu uy nghi lồ lộ
Tiệc đan trì khánh thọ Vua Cha
Quần tiên gót ngọc vào ra
Tiêu thiều nhạc vũ đàn ca vang lừng
Đức Tiên Chúa vào dâng thọ tửu
Bỗng sảy tay rơi chén ngọc hoa
Long đình phật ý vua cha
Lệnh truyền sắc giáng Tiên Nga cõi trần
Phú chênh:
Phụng ngọc chỉ bất phân thời khắc
Hạ cõi phàm, hành sắc thông thông
Gió đưa thoang thoảng hương xông
Mới hay thân nữ tiên cung hạ phàm
Rằm tháng tám nguyệt quang rờ rỡ
Nụ ngọc quỳnh chớm nở cánh hoa
Hương thơm ngào ngạt gần xa
Mừng thay người ở cung nga mới về
Phủ Nghĩa Hưng thôn quê Thiên Bản
Tổng Tiên Hương, Vân Cát, Lê gia
Hình dong mắt phượng da ngà
Giáng sinh Lê thị, tự là Giáng Tiên
Tươi vẻ thắm càng thêm dáng ngọc
Tốt nét hoa nhan sắc khôn so
Có khi hoạ bút ngâm thơ
Giọng loan thánh thót ngẩn ngơ nỗi lòng
Đủ mọi điều công dung ngôn hạnh
Khách thần tiên cốt cách thanh tân
Cát đằng duyên hợp tấn tần
Đào hoa xứng khách văn nhân rành rành
So ấy là mai thanh trúc quý
Đấng anh hùng sánh ví thuyền quyên
Có hay hai chữ lương duyên
Ngờ đâu con tạo làm lên sự này
Phú dầu:
Trách tạo hoá ra tay ứng biến
Nhỏ lệ sầu thảm thiết châu rơi
Lang quân dạ rối bời bời
Thung huyên ruột thắt mấy lời xót xa
Ngả âm dương dễ hoà ai biết
Để hoa rơi trăng khuyết ngọc tan
Đôi mươi mốt tuổi nhân gian
Hạn tiên đã tới xe loan phút về
Ngày mồng ba tháng ba ấy nhẽ
Mãn hạn tiên bóng xế non tây
Rầu rầu ngọn cỏ hây hây
Xót xa vẻ ngọc nét mày sầu thương
Bởi duyên nợ còn đương dang dở
Nhớ quê hương than thở khúc nôi
Vua Cha phán chỉ mấy lời
Rằng cho trắc giáng mọi nơi phi thường
Nỗi nhung nhớ quê hương Thiên Bản
Mượn gió trời cánh nhạn phút bay
Tới nơi cảnh vật đặt bày
Đường xưa lối cũ rặng cây hiên nhà
Ẵm con thơ xót xa tấc dạ
Lạy thung huyên nghĩa cả ân thâm
Bày lời thưa với lang quân
Nước non đôi ngả muôn phần nhớ nhung
Phút biến hoá thần thông một khắc
Dạo bốn phương nam bắc đông tây
Có phen nương gió cưỡi mây
Non bồng nước nhược đó đây đi về
Có phen chơi lầu khuê gác nguyệt
Cõi trời nam nhân kiệt địa linh
Thanh Hóa sơn thuỷ hữu tình
Đồi Ngang Phố Cát xinh xinh lạ nhường
Giếng âm dương soi gương điểm đót
Đỉnh Sòng Sơn chải chuốt dung nhan
Có khi dọn quán bán hàng
Cau trầu rượu thuốc đỉnh đang ghẹo người
Kẻ phàm phu buông nhời bất kính
Ấy như là bạc mệnh duyên ôi
Có phen xứ Lạng dong chơi
Văn nhân lạc bước gặp người tài danh
Phú nói:
Chốn cảnh thanh vịnh thơ ngâm đối
Bốn chữ đề như gợi sứ quan
Gỗ đầu thời để nằm ngang
“Băng mã dĩ tẩu” sửa sang Linh Từ
Sai dân lập đền thờ Tiên Chúa
Phùng sứ quân giục ngựa lai kinh
Tây Hồ nước biếc long lanh
Thảnh thơi dạo gót cảnh thanh tiêu sầu
Ngắm hoa cỏ muôn màu khoe sắc
Thoảng hương sen ngào ngạt gần xa
Bỗng đâu mây khói nhạt nhoà
Lầu thơ quán rượu xa xa tới gần
Lạc bước chân tây hồ phong nguyệt
Thoảng mặt hồ gió quyện hương sen
Văn nhân lạc lối cảnh tiên
Thoáng trông chủ quán đôi bên cô hầu
Nước trong xanh một màu biêng biếc
Tràn ý thơ ngọc tuyết ngâm nga
Thú vui nhấp rượu thưởng trà
Bóng chiều xê xế gió là là bay
Phút từ biệt chia tay chủ khách
Để nỗi niềm cảm kích bâng khuâng
Chạnh lòng quán cũ hỏi thăm
Gió đâu hiu hắt lăn tăn mặt hồ
Quán đâu thấy nhấp nhô gợn sóng
Rặng liễu bồ vắng bóng Tiên nhân
Gốc cây thơ hoạ đôi vần
Khách tiên kỳ ngộ duyên trần biết chăng.
Thơ:
Vân tác y thường phong tác xa
Triêu du Đâu Suất mộ yên hà
Thế gian dục thức ngô danh tính
Nhất đại sơn nhân ngọc quỳnh hoa
Phú nói:
Thú ngao du gần xa khắp ngả
Gió Tây Hồ non nước Thanh Hóa
Sòng Sơn Ba Dội vào ra
Ngắm trăng đỉnh núi cầm ca trêu người
Ấy có hay duyên trời ước định
Bởi chăng là duyên nợ ba sinh
Một duyên hai nợ ba tình
Chỉ hồng chắp mối duyên lành một nơi
Dọc cách:
Đấng anh tài vốn người Kẻ Sóc
Phượng sánh rồng tơ tóc phải đôi
Mới hay sự bởi cơ trời
Rằng Tiên thượng giới với người trần gian
Trách duyên phận dở dang đôi lẽ
Lửa hương nồng lại để cách xa
Chim trời cá nước ai hoà
Ngưu Lang Chức Nữ lệ nhoà sông Ngân
Bỗng đâu thấy hồng vân ngũ sắc
Tiếng nhạc thiều dìu dặt đôi bên
Nhạc thiều như giục lòng Tiên
Hợp tan tan hợp chỉ thêm đeo sầu
Phút chia ly lệ châu than thở
Nghĩa phu thê dang dở bấy nhiêu
Nỉ non nói hết mọi điều
Có hay ly biệt lửa thiêu nỗi lòng
Nghĩa vợ chồng trăm năm tơ tóc
Ẵm con thơ than khóc xót xa
Cờn:
Vầng dương khuất lặn chiều tà
Loan xa rước đón hài hoa về trời
Dấu anh linh muôn nơi ngưỡng phục
Lập đền thờ chầu chực khói nhang
Bốn phương nức tiếng danh vang
Sòng Sơn Ba Dội Đồi Ngang ra vào
Có phen ngự võng đào ngoạn cảnh
Ai người thời bất kính chẳng tha
Tiếng đồn khắp hết gần xa
Có Tiên Thần nữ biến ra hại người
Ai ngang ngược khó thời sống sót
Trẻ cùng già hoảng hốt sợ kinh
Tấu về cho tới triều đình
Lệnh nghiêm các tướng ra binh khảo trừ
Truyền lửa đốt đền thờ Tiên Chúa
Mịt mùng trời sấm dội non xanh
Hãm cách:
Mới đâu hay sự bất bình
Dấu thiêng Tiên Chúa anh linh đâu ngờ
Lúc bấy giờ ra uy trần thế
Sấm lừng vang góc bể chân mây
Trần gian mê muội có hay
U mê nhỡn nhục đêm ngày xót xa
Mới ra tay gần xa khiếp sợ
Lập đền thờ phụng sự mới thôi
Dồn:
Ngẫm thay sự bởi cơ trời
Bảo dân hộ quốc muôn đời vinh phong
Lập đền thờ ngàn năm nhang khói
Sắc tặng phong choi chói muôn thu
Sử vàng ghi tạc thiên thư
Âm phù dương trợ giúp vua mấy kì
Sắc tôn phong “Mẫu Nghi Thiên Hạ”
Cửa linh từ nhang xạ ngát hương
Biển đề Hoà Diệu Đại Vương
Vân Hương Thánh Mẫu muôn phương đảo cầu
Dẫn sự tích văn chầu Tiên Chúa
Tâm chí thành phụng sự không sai
Chúa Tiên gia lộc ban tài
Khuông phù Nam Việt phúc lai thọ trường!
Bản văn thứ ba – Thánh Mẫu sự tích quốc âm ca
Làng Vân Hương giáng sinh thần nữ
Cõi Nam Thiên bất tử nổi tên
Vốn xưa Đệ Nhị cung tiên
Phong lưu Công Chúa ở trên Thiên Đình
Đương việc thọ khi mang chén ngọc
Quá lòng mừng bỗng chốc rời tay
Phép trời đâu có riêng tây
Hai mươi năm đó xuống đày trần gian
Năm Thiên Hựu Lê Hoàng thứ nhất
Dấu Giáng Tiên Trần thất thác ra
Rõ ràng vóc ngọc vẻ hoa
Hoa mà biết nói ngọc mà biết thơm
Tính linh tuệ cộng thêm cho học
Gồm cầm thi ca khúc đều hay
Hiếu trinh có một người đây
Lầu cao trăm thước giá này ai ngang
Thôn giáp Nhị vốn làng kế đó
Đuốc văn phòng bóng tỏ tình lang
Ba năm chăn gối vội vàng
Hạn kỳ đã hết Thiên Đàng đã lên
Lòng sắc son minh bạch gửi tâu
Ngọc Hoàng soi xét trước sau
Trần gian lại xuống hoa lâu lại về
Công sinh dưỡng tình quê day dứt
Điệu sắt cầm duyên kết càng sâu
Đôi bên thung tạ huyên sầu
Đào hoa mặt vắng vân du lòng đành
Khi Lãng Uyển, Bồng Doanh xa tới
Khi góc biển khi lên trời
Khi người lão ấu, khi người mỹ nhân
Khi dưới nguyệt cầu thần lẩy điệu
Khi trăng hoa cuộc rượu mở hàng
Khi bài lá khi cung đàn
Khi ngay giữa quán, khi ngang bên đường
Khi tỉnh Lạng gặp chàng Phùng sứ
Khi Tây Hồ văn tự cùng ai
Đông Kinh trở gót tiến hài
Đã ngay ngoài phố đã mai trong thành
Khi hoa Hạc Hoàng Đình tới đó
Khi Đông dương ngựa gió ghé qua
Khi Nghệ Tĩnh khi Thanh Hoa
Khi vào Hoàng Lĩnh khi ra Thạch Thành
Khi Phố Cát hiển linh đã rõ
Khi Sòng Sơn mới tỏ cơ duyên
Lắm khi họa phúc uy quyền
Phép vua dẫu hiển phép Tiên càng thần
Khi tuyết lĩnh đã chân qui Phật
Nọ tự mình lại thực qui sư
Rộng đường hết sức tu trì
Cứu dân giúp nước hằng ghi một niềm
Nhà vua thủa dẹp giặc khi trước
Cùng gắng công giúp nước dân ta
Đại vương có sắc ban ra
Chữ rằng Chế Thắng Bảo Hoà diệu phong
Triều ta lúc hỗn đông nam bắc
Hiển anh linh ra sức âm phù
Gia Long thứ bốn hiệu vua (1805)
Tiên Hương tên xã dụ cho về làng
Trên chín bệ đã ban quốc điển
Dưới vạn gia đều hiển thần quyền
Dám xin trắc giáng ở trên
Quốc dân tý hộ, trào lên xuân đài.
Bản văn thứ tư – Liễu Hạnh Công Chúa diễn âm
Rày vừa tiết xuân ngâm cảnh hảo
Dâng một đàn phố cáo chư Thiên
Lòng tin khẩn đảo mời khuyên
Khói hương nghi ngút thấu lên thượng đài
Trên thượng giới vừa ngày khánh hạ
Điện Linh Tiêu thánh giá thung dung
Ngọc Hoàng chính ngự càn cung
Bách quan chầu chực sân rồng bệ giai
Chốn thiên đài vừa khi tơ trúc
Sáu cung đều xướng khúc ca tâu
Xảy thấy Tiên nữ vào chầu
Khoan khoan chân bước đến chầu bên ngai
Tay nâng chén ngọc đã rơi
Thượng đế linh bài quan pháp vô thân
Cho làm con họ nhà Trần
Ở đất Thiên Bản là dân Phủ Dầy
Tiết vừa ngày trung thu vọng nguyệt
Nức hương trời mùi ngát thơm xa
Áo sinh thần nữ tiên gia
Vóc ngọc mình ngà nhan sắc phương viên
Chẳng ngờ là thần tiên xuất thế
Mới gửi nhà Lê thị phu nhân
Kể từ niên đến ngoại tuần
Thi ca ngâm đọc mười phân hơn người
Mi cung nguyệt, miệng cười hoa nở
Nhị thùy châu mặt tựa Hằng Nga
Áo hồng khuyết ngọc trâm ngà
Lưng ong tóc phượng nõn nà thêm ưa
Mẹ cha mừng rỡ sớm khuya
Tốt nỗi một ngày một tốt bằng tiên
Tuổi vừa nguyệt đáo thu thiên
Chọn người hào kiệt xe duyên tơ hồng
Mừng đã được cưỡi rồng phận đẹp
Ước ba sinh vẹn kiếp phu thê
Trách thay tạo hóa chẳng vì
Hay là duyên kiếp xưa kia lỗi nguyền
Vậy cho nên âm dương cách biệt
Hễ ở đời một phút sinh ly
Mồng ba tháng ba Dần thi (Giờ Dần mồng Ba tháng Thìn)
Hồn hoa phút biến âm ty chẳng còn
Vua Diêm môn thấy người quý khách
Hỏi rằng nay thật khách thiên đình
Tuổi hai mươi mốt xuân xanh
Bỏ cha cùng mẹ, bỏ anh cùng chồng
Lọt âm cũng phi thăng thượng giới
Bạn tiên nương phơi phới lên trên
Vua phong Liễu Hạnh Chúa Tiên
Nhưng hiềm chửa mãn lời nguyền dương gian
Tâu xin lại về miền hạ giới
Kẻo mẹ cha ái ngại nhớ trông
Được lời thượng đế cửu trùng
Lại về chốn cũ vào cung trong nhà
Thấy mẹ cha đêm khuya ngồi khóc
Thức chẳng nằm, trằn trọc nhớ con
Than rằng đất rộng trời tròn
Bao giờ cho lại thấy con chăng là
Công sinh ra buồng hương dưỡng dục
Nỡ lòng nào lại bỏ mà đi
Ai làm nên nỗi sinh ly
Mẹ con cách biệt làm chi thương này
Dầu mai ngày tuổi già mệnh yếu
Mẹ cậy ai báo hiếu là con
Cha già lẻ bóng đầu non
Xa khi ác lặn trông con khôn chừng
Từ xa biết sự tình mọi nỗi
Chúa càng thêm thương tủi sầu bi
Hồn thiêng biến hóa về rày
Hiện vào chốn cũ phòng tây trong nhà
Thương cha mẹ lòng sầu thảm thiết
Ai làm nên cách biệt sinh ly
Sứ tâu trước mặt thiên nhan
Ngọc Hoàng sắc chỉ cấp ban tức thì
Sự tình tâu hết một khi
Truyền nhời chiếu chỉ vậy thì vương ngôn
Dặn dò Quế, Thị giữ đền
Cưỡi mây Đâu Suất chúa liền phi thăng
Các bạn tiên mừng chầu đón rước
Vào Động Đình tạ trước thiên nhan
Cửu đồng mừng rỡ thiên ban
Vời vào ngự điện hỏi han một lòng.
Bản văn thứ năm (theo Tiên phả dịch lục)
Mùi hương quế nước nhà thơm nức,
Dấu xe loan mừng đức Chầu về.
Đàn ta, ta đọc người nghe,
Một nhà trăng tĩnh, bốn bề gió thanh.
Hoa thiên nữ trong mành rải rác,
Bóng hồng y ngoài sắc phất phơ.
Kể từ Thiên Hựu Lê sơ,
Ba trăm năm lẻ đến giờ chưa xa.
Dấu Tiên giáng về nhà Trần thị.
Cõi Sơn Nam tú khí đốc sinh
Đôi vai nặng gánh hữu tình,
Hóa hình rồi lại hiện hình như xưa.
Uy hách hách bấy giờ đã hiển,
Tiếng linh thiêng bia miệng đến rày.
Lửa hương khuya sớm Phủ Dầy,
Sòng Sơn, Phố Cát xưa nay hiển thần.
Trên Thượng Khuyết mấy lần sắc tặng,
Mã Hoàng rồi Chế Thắng Đại Vương.
Dưới hạ giới bốn phương cảm đức,
Miếu chung rồi riêng đất dài lâu.
Nào người cầu tự chiêu tài,
Nào người cầu phúc nhương tai mọi điều.
Nào người khu quái trừ yêu,
Nào người chúc thệ cầu siêu đủ đường.
Người khoa cử nén hương tiến yết,
Báo mộng cho biết chuyện cơ huyền.
Người công lợi đường lên thiếu thốn,
Âm dương cho đủ biết vừa đi.
Kìa người thành kính không nghi,
Ắt là âm vượng phù trì chẳng sai.
Kìa người ngạo mạn chê bai,
Ắt là hiển thị họa tai cho chừa.
Cũng có lúc sớm trưa hỏi chữ,
Thơ một thiên nho tự xem ra.
Cũng có lúc thiết tha nhân sự,
Ca một bài quốc ngữ bảo cùng.
Tuyết Sơn hơn thước tượng đồng,
Lửa binh mấy độ bên trong vững vàng.
Sòng Sơn xe hỏa ngoài đường,
Trần ai mấy ngả khói hương chẳng hề.
Còn trời còn nước còn non,
Quốc ân còn vựng tiên hồn còn thiêng.
Bản văn thứ sáu – Địa Tiên Thánh Mẫu ca
Bóng gương loan mẫu đơn một đoá,
Gió lay mành hương xạ thoảng đưa.
Có chầu nguyệt điện tiên xưa
Lánh miền cõi tục phận ưa Nam thành
Kiếp giáng sinh vào nhà Lê thị
Cải họ Trần dấu khí thiên hương
Vốn sinh có vẻ phi phương,
Giá danh đòi mộ hoa vương khôn bì
Ngụ thai quê Phủ Dầy, Thiên Bản
Phủ Nghĩa Hưng là quán Sơn Nam
Trẻ thơ chưa biết duyên phàm
Đeo kinh còn vết để làm dấu thiêng
Tuổi tới niên cài trâm, giắt lược,
Kết duyên lành quê phước một nơi
Gối chăn vừa mới quen hơi
Ai ngờ dưới nguyệt sảy rơi tơ hồng
Đạo vợ chồng còn đang thương nhớ,
Bỗng hoa hài lại giở gót tiên,
Giờ Dần mồng Ba tháng Thìn,
Đôi mươi mốt tuổi rẽ duyên trần phàm
Ấy ai làm chăn thương gối thảm,
Kiếp hay nguyền lãnh đạm về đâu
Lương quân dạ rối đòi nao,
Thung, Huyên nào biết thảm sầu mấy cơn
Rầy Thánh đã cung tiên nguyệt quế,
Dễ xui lòng trần thế xót xa,
Có phen Tiên lại nhớ nhà,
Bỗng thời Tiên ở đường xa ngự về.
Thăm bản quê thung, huyên đất nước,
Cửa nhà chồng sau trước mọi nơi
Thăm rồi Tiên lại ra chơi,
Đồi Ngang – Phố Cát là nơi duyên lành
Ca tính tình, tiếng tơ, tiếng trúc
Thương một người bạc phúc dân ngây,
Cho nên Tiên mới thử tay
Dễ đâu mà lánh, khôn thay mà phòng
Sự mơ mòng thực hư nhường giới
Lòng trần gian mê muội biết đâu
Tuy rằng hồn phách nhiệm màu,
Không thiêng tích để đã đâu đến rày
Cũng nhiều ngày cưỡi mây nương gió
Vào Nghệ An sẵn có nhân duyên
Nước non khéo kết nên nguyền
Chốn thanh cảnh lịch kết duyên cũng vừa
Ấy duyên xưa hay là nợ mới
Hội phi thường Thánh mới sinh con
Tuổi vừa ba, bốn khôn ngoan,
Hiềm đâu Thánh để lại con cho chồng
Chữ sắc không xem thường mới biết,
Lấy của gì là kiếp là chăng,
Tính thiêng không ngại gió trăng
Ai ngờ phút hợp, phút tan nữa hoài
Song vật nài làm chi cho khổ
Đứng duyên lành sẵn có nhiều nơi
Thăm rồi Tiên lại ra chơi,
Cây cao bóng mát là nơi giữa đường
Giếng âm dương xưa nay trong sạch,
Khi nắng mưa trợ khách đường xa
Đồi Ngang, Phố Cát vào ra
Đôi khi giáp cõi Thanh Hoa đất lành
Chốn cảnh thanh Tiên thường ngự đấy,
Khách vãng lai tự ấy mới hay
Cho nên Tiên mới ra tay,
Một ngày khôn vái hai ngày khôn van
Khách thác oan, nhiều người phi mệnh
Bèn sai ra đội lệnh nhà vương
Ngự tình kíp giận khôn lường
Sai binh mã tới Đồi Ngang tiễu trừ
Súng bắn lên vang như sấm động,
Dấu thiêng nào dám chống quốc uy,
Thánh bèn chịu nhẫn lánh đi
Than rằng má phấn đâu bì trượng phu
Sao không xét âm dương nhị lý
Lại ra điều lấy lý nạt nhau
Lệnh Trời ai dám chi đâu,
Còn ai ở Thế biết nhau sau này
Chốn am mây từ ngày nguy biến
Ai còn kẻ dâng tiến đèn hương
Nền xưa hiu quạnh tuyết sương
Trăng hoa giãi tỏ quyên vàng còn chen
Các bạn Tiên về tâu Thượng Đế
Có Tiên chầu Thánh Mẫu ngự chơi
Đồi Ngang, Phố Cát nghỉ ngơi,
Lầm con mắt tục ra người bạo hung
Đã phá tan nơi ăn chốn ở,
Lại còn điều càn rỡ nhuốc nha,
Ngọc Hoàng ngự chỉ phán ra,
Đào, Lan, Quế, Huệ bách hoa mọi nàng,
Xuống Đồi Ngang thăm Chầu Tiên Thánh
Xem Tiên Chầu đức chính làm sao
Phán rằng phẩm trật thiên tào,
Mà sao trần thế hỗn hào tam phân
Trách thôn dân những người ở đấy,
Sao con Trời dám lấy làm khinh
Sơn xuyên đòi lại bách linh
Gia uy sẽ thử anh linh bõ bèn
Chớ sát hại nhân gian chi quá,
Trời là cha, thiên hạ là con
Ví dầu đua mạnh tranh khôn
Thời nhân gian đó ai còn dám đương
Vua Ngọc Hoàng phán lời nhân thử,
Các cung Tiên vâng cử đi ra
Tới nơi hỏa tốc tinh phi
Trước thời thăm Thánh, sau thời trách dân
Đã yêu phần càng thêm yêu nghiệt
Quở dân phàm sợ khiếp hơn xưa
Dân mong lập điện nên thờ
Bách quan đội lệnh sau xưa cho tường
Chốn Đồi Ngang thờ Chầu Tiên Thánh
Tự hương tàn, khói lạnh nhường nay,
Lấy làm khuất mắt khôn hay
Gia uy thời cũng nhiều người sợ kinh
Tâu Thánh minh ngự qua nhời ấy,
Lập Đền thờ tự đấy mới yên
Người dân quái dị nồng nàn,
Xót thương dân tục lầm than phải tùy
Sắc tức thì tặng phong Chế Thắng
Biển vàng treo “Thượng Đẳng Tối Linh”
Muôn dân từ đấy sợ kinh,
Mới hay phép Thánh anh linh, nhiệm màu
Khắp đâu đâu nức danh từ đấy,
Ai kẻ còn dám lấy làm khinh.
Dù lòng hiển Thánh anh linh
Đến đâu thời đấy hãi kinh giờn giờn
Cũng có cơn hiền lành vui vẻ
Phấn điểm trang chải rẽ thanh tao
Dù khi thất ý nơi nao,
Đường con sư tử bào hao dậy giàng
Thêm đôi bà chầu Quỳnh, chầu Quế
Ấy là trong nghĩa đệ thân huân,
Hôm mai chầu chực áo khăn
Uy nhờ Tiên Thánh có phân nồng nàn
Rầy Mẫu đã về ngàn nhân đức
Quyền đôi bà xem xét trang nghiêm
Có khi nương gió thác rèm,
Ai nương bóng Thánh càng thêm não nùng
Cũng có khi quyền chung tiên nhớ
Cũng có khi qua nhớ lại thôi ,
Thương khi duyên chắp phận xui,
Ban Tài, ban Lộc, ban Ngôi, ban Quyền
Kẻ lỗi nguyên càng thêm bầm nhỡ
Có lòng tin khấn khứa truyền tha
Trọn bề phách nguyệt hồn hoa,
Đã nên một cảnh yên hà có danh
Xưa Thánh chốn yên lành từng ngự,
Cũng từng quen Tiên nữ năm, ba
Rẩy chân xuống sợ sa bà
Khuông phù ngọc ấn quân ba giới thần
Gia uy linh cứu nhân độ thế
Trẻ cùng già ai nấy đội ơn
Ban Tài, ban Phúc, ban Nhân,
Phù hộ đệ tử thiên xuân thọ trường!
Bản văn thứ bảy – Cảnh Thư Đường Văn
Xe phượng từ vâng sắc Ngọc Hoàng
Giáng sinh Lê thị dấu thiên hương
Hây hây mặt ngọc phô nền trắng
Rờ rỡ môi soi ánh nhị vàng
Hiển hách đã vang trong phủ nghĩa
Anh linh nổi tiếng chốn Sòng Sơn
Từ vâng ngọc ấn gia phong tặng
Náo nức xa gần khắp bốn phương
Miễu cách:
Cảnh thư đường thanh phong ngoạn nguyệt
Thủa ba dương trong tiết thiều quang
Nhân khi nhàn hứng triều dương
Vậy bèn ngẫm ngợi sự nàng thần tiên
Trên thượng thiên vừa ngày mở yến
Vua Ngọc Hoàng chính điện Linh Tiêu
Lưỡng ban văn vũ thần liêu
Sân đan chấp chới tiêu thiều thung dung
Khúc Nam cung thôi khoan lại giục
Nhạc lừng vang tiếp tục uy nghi
Tiệc bày hoa hạc đan trì
Phương chương vẻ bích lân phi thức hồng
Vị tiên cung thiên nga ngọc nữ
Chén thọ trường thứ tự quỳnh tương
Có chầu cách điệu dịu dàng
Quỳ dâng Thượng Đế chén vàng sẩy tay
Trước năm mây vua cha kíp giận
Nổi lôi đình một trận ai đang
Tinh phi hoả tốc vội vàng
Ngự truyền Bắc Đẩu phê nàng giáng sinh
Cảnh địa linh Nam Sơn, Phủ Nghĩa
Thổng cách:
Giữa huyện thiên An Thái xã danh
Họ Lê nổi dấu trâm anh
Cải về Trần thị phúc lành thư hương
Nguyệt tròn gương gió vàng hiu hắt
Quế đưa hương ngào ngạt gần xa
Mãn tuần bèn tỏ Hằng Nga
Đã đem đức trọng sinh ra trưởng thành
Tóc mây xanh mày ngài mặt ngọc
Tựa da ngà chân chuối hài hoa
Hình dung cá lặn chim sa
Ví so quốc sắc ắt là không sai
Qua mười hai tới tuần tam ngũ
Kết duyên lành hợp ngụ bản hương
Nay mừng phấn lược bén gương
Ai xui nguyệt lão tơ vương nên trời
Vừa lo đôi gối chăn đệm chiếu
Xảy ra triều tây liễu đào đông
Chửa cam chút nghĩa tương phùng
Gian nan nỡ phụ sàng đông bao đành
Tuổi xuân xanh tới tuần tam thất
Để thung huyên phút ngắt trần duyên
Giờ Dần, mùng ba, tháng Thìn
Bình cách:
Xe loan sớm lánh cõi tiên ai tường
Ấy ai làm đêm thương ngày nhớ
Chẳng ngỡ là để nợ hay duyên
Lang quân luống những đeo phiền
Thung huyên nào biết mấy phen thảm sầu
Tưởng quặn đau ruột tằm vấn vít
Lệ ngọc tuôn thánh thót thánh tha
Than rằng phách nguyệt hồn hoa
Âm dương xa cách dễ hòa biết hay
Phượng lên mây ngựa về cửa ải
Mảng tử quy khắc khoải lòng tơ
Quải người hay tạo hoá cơ
Vì đâu nên nỗi sinh cơ nhường này
Rày Thánh đã cung mây các nguyệt
Có hay lòng thảm thiết này chăng
U minh tuy đã khác hằng
Tính thiêng xong đã dùng dằng nhớ quê
Lại hiện về thăm thung huyên nhé
Dặn lang quân cặn kẽ trước sau
Thăm thôi lại bước xuống lầu
Thần thông biến hoá hay đâu là người
Phú chênh:
Trải đôi nơi nước non chơi dạo
Tìm đâu là cảnh hảo địa linh
Thanh Hoa sơn thuỷ hữu tình
Long chiền hổ nhiễu đất lành tự nhiên
Mạch chỉ huyền hà hải chung tú
Được xứng tình hữu thú mừng thay
Trên thời quán tuyết cung mây
Trăm hoa đua nở sánh bầy phong quang
Chốn Đồi Ngang cùng nơi Phố Cát
Có một bầu gió mát trăng thanh
In đồ bát cảnh rành rành
Lầu Tần há sánh, thị thành khôn so
Trúc líu lo bách tùng đàn suối
Chim đành hanh phượng ruổi loan ca
Giữa đường chính sứ người qua
Biến lên chân tính hiện ra bán hàng
Trà ngũ nhang tưng bừng chén mảng
Rượu cửu tiên nem phượng chả lân
Phú dầu:
Đòi nơi la liệt bát chân
Phô trương quý vật kỳ tân mọi mùi
Thêm có đôi hồng nhan thể nữ
Việc trong ngoài giữ gìn trước sau
Nhân gian khôn biết cơ mầu
Nào ngờ người thế hay đâu là thần
Khách thời nhân ai ai nấy nấy
Thường đi về qua đấy nghỉ ngơi
Hình dung tốt tốt tươi tươi
Dễ xui chuyển thế nhiều nhời hoa giăng
Chốn cát đằng đã đành chờ gió
Trải chi nhời nói khó mà kiêng
Lạ thay hoa nở tháng giêng
Bướm qua cành ngọc, ong nghiêng nhị vàng
Khi buồn nương câu lan tựa ngọc
Ngụ tính tình đàn đọc say sưa
Ngợi ca vịnh phú ngâm thơ
Tập tành tiếng trúc tiếng tơ âm thầm
Thổi quyển trầm thánh tha thánh thót
Hát nói:
Gẩy đàn tranh bẻ bót bẻ bai
Nhạc âm nhường lọt bên tai
Dẫu lòng vàng đá dễ ai cầm đành
Sự yến oanh nhiễu nhời quấn quýt
Trải chi nhời hoa nguyệt ong bay
Bây giờ Chúa mới ra tay
Kẻo mà sự thế còn hay dông dài
Xá chi ai kẻ đi người lại
Chẳng lánh phòng thời phải sa cơ
Say sưa ong bướm vật vờ
Bận chân vì nhện vương tơ dịu dàng
Sự phi thường mới hay tự đấy
Khắp gần xa đâu đấy uy linh
Có phen vào Nghệ An kinh
Gặp người Kẻ Sóc đông thành kết duyên
Chẳng bao quản lòng tiên cõi tục
Đọc cách:
Ngán xa tìm mai trúc phải đôi
Mới hay sự bởi cơ trời
Chẳng xe cũng mắc bởi nơi tơ hồng
Dốc một lòng nữ công nữ tắc
Việc tề gia cơ mực đảm đang
Trong ngoài cắt đặt sẵn sàng
Đạo tòng đã tỏ nhường gương lầu lầu
Trước chí sau thuỷ chung như nhất
Vẹn mười nguyền chẳng nhặt mỗ phân
Hôm mai chuyên việc tảo tần
Tấc lòng thành kính mười phần thảo ngay
Một nhà vầy lan lan huệ huệ
Dòng dõi thêm đan quế hây hây
Mảng vui oanh yến sum vầy
Nào hay con tạo ra tay xoay vần
Dẫu nhắc cân thăng bằng chẳng xứng
Chớ thời đành đeo đẳng làm chi
Cùng nhau tự thủa vu quy
Chưa từng ai đã bấc chì đến ai
Nghĩ duyên sánh trời dài đất rộng
Kíp thắm sao bỗng chốc thờ ơ
Cờn luyện:
Ai làm cho ngó lìa tơ
Hiền đâu lại để con thơ ấu trùng
Phật cưỡi rồng trăm năm ước mãn
Bỗng vui chung để đoạn sầu tây
Tưởng rằng chẳng thẹn gió mây
Ai hay phút nhớ phút khuây chẳng ngờ
Tạo hoá cơ khi doanh khi trắc
Nào hay là thị sắc thị không
Ắt là kiếp trước chưa xong
Ấy nên mới phải luỵ vòng trần ai
Có phen lại về nơi cảnh cũ
Lối mận đào càng rũ càng say
Tưởng rằng tiếng vẳng tin chầy
Âm dương nhỡn nhục nào hay định nhầm
Hay còn chữ hoạ dâm phúc thiện
Đã ra tay ứng biến chẳng tha
Vãng lai dù trẻ dù già
Nhơn nhơn nhiều nỗi oan gia khôn phòng
Biến lạ lùng nhiều người oan thác
Ai ai đều nhớn nhác sợ kinh
Kiểu dương:
Tiếng đồn dậy khắp kinh thành
Rằng Đồi Ngang có chúa tinh hại người
Chiếu khải thôi ngự đình kíp giận
Nổi lôi đình một trận ai đang
Phép như phong hoả dậy giàng
Sai binh mã tới Đồi Ngang tiễu trừ
Súng kể dư trăm đều đủ giọng
Vang lừng nhường chuyển động thiên lôi
Miếu từ phụng sự mấy nơi
Truyền đem lửa đốt một thôi đùng đùng
Tuy có phép thần thông cái thế
Song nhất hoàn nan chế thái sơn
Làm thinh thẳng bước giận hờn
Trách rằng sao nỡ một cơn nhường này
Ngỡ thế hay lòng vầy ấy nhẽ
Chẳng ngờ là lấy thế lấy uy
Oan gia đành để lo chi
Đã làm kẻo giận có khi xem nhờn
Đức hiếu sinh đội ơn Thượng Đế
Pháp uy nghi cứu tế sinh linh
Bể đào chưa tắt tăm kình
Đến khi vùng vẫy dễ kinh dờn dờn
Lại dấy cơn ra uy thảm khốc
Nhiễu phương dân than khóc ỏi tai
Trẻ già chẳng sót một ai
Càng ngày càng một ra oai báo thù
Sự đảo cờ làm sao cho thấu
Hãm cách:
Bèn mấy làm bản tấu ngự qua
Rằng đền thờ Chúa Tiên Nga
Tự khi lãnh Thánh phôi pha đến rầy
Cá vạ lây cháy thành sóng vũng
Đâu đâu đều hoảng khủng kêu ca
Cửu trùng doãn ý lượng gia
Lập đền tự sự kẻo mà hại dân
Thượng Đẳng Thần sắc phong choi chói
Sai quan về cho tới Đồi Ngang
Mấy nơi cung điện sửa sang
Tàn vàng quạt phượng nghiêm trang đặt hàng
Lại phụng ban mọi đồ quốc tặng
Bảng vàng treo “Chế Thắng” uy nghi
Nghìn thu sử sách còn ghi
Thập phương xích tử đảo kỳ bình an
Tư tiết giới xuân thiên hoá nhật
Cõi Việt Nam tứ bất đẳng thần
Ngưỡng trông tiên chúa gia ân
Xuân Yên, Hà Vĩ, tứ dân tôn sùng
Tang miếu vũ ức niên hương hoả
Thuận mỹ từ muôn thủa tăng long
Thuận thiên tâm thuận lạc đông
Mỹ lưu phương mỹ vinh phong đời đời
Thuận mỹ hưởng xuân đài thọ vực
Chồi quế đào thơm nức chật sân
Đạo lưu chúng đẳng kim thần
Bạch tuyên tán vịnh hương vân một bài
Nguyện giáng phúc trừ tai hạn ách
Độ từ chung hưởng lộc kỳ di
Kim thần ca tụng (biểu) thường nghi
Duy nguyện giáng lâm thi cảnh phúc.
Bản văn thứ tám – Văn Mẫu Phủ Dầy
Cung Quảng Hàn phất phơ bóng thỏ
Người trần gian ai tỏ sự tiên
Vốn khi xưa dấu khí hạo nhiên
Lúc vào Nguyệt điện, lúc lên Thiên đài
Vâng lệnh sai giáng sinh trần thế
Lòng trần gian ai dễ biết hay
Họ Trần Thiên Bản Phủ Dầy
Cù lao dưỡng dục đêm ngày nâng niu
Giá chắt chiu, lầu vàng gác ngọc
Đích nên tài quốc sắc thiên hương
Má đào môi hạnh phi phương
Giá so Tống Tử, Tề Khương ai bì
Thủa nghi gia, còn đương trau chuốt
Bỗng hoa hài lại trở gót tiên
Hay đâu nguyện chửa phi nguyền
Lang quân dạ rối, thung huyên dầu dầu
Cửa Tần Quỳnh từ nay chếch lệch
Cảnh trang đài để mạt tung tăng
Non đài mây đá vân lăng
Nơi non cao để gặp hằng thuyền quyên
Dưới cửu tuyền mênh mông bỡ ngỡ
Chẳng ngờ Bà còn ở tiên cung
Sớm khuya chầu chực bệ rồng
Ơn trên đã được sắc phong thẻ vàng
Bà Quỳnh Hoa chính ngôi công chúa
Vâng lệnh sai bái tạ trước sân
Có phen giá vũ đằng vân
Qua chơi quán Sở, lầu Tần tiêu dao
Ngày từ được ban cho duệ hiệu
Sắc vàng phong: Hoà Diệu Đại Vương
Đèo Ngang phong cảnh lạ nhường
Say sưa nước trí dặm trường non nhân
Có phen chơi vườn xuân ngõ hạnh
Gặp bạn tiên đổng triết cầm ca
Có phen vui thú yên hà
Bẻ bai giọng tiếu, cầm ca trêu người
Khắp thiên thai về nơi kinh quốc
Trải non bồng nước nhược từng phen
Hôm mai nương gió thác rèm
Ai ưa bóng vía càng thêm não nùng
Cửa Thánh đã thung dung rộng mở
Dưới đồng nhân hỷ xả từ bi
Độ cho muôn việc tề nghi
Trừ tà trị bệnh ra uy hiển thần
Bà dạy rằng hại nhân nhân hại
Thiên sinh nhân, nhân lại thành thiên
Tai nghe tiếng ngọc còn êm
Dám đâu cậy thế tranh quyền khi nay
Danh thơm bay khắp hòa thiên hạ
Nữ trung thần đáng giá vô song
Nay ơn Thượng Đế sắc phong
Lại theo Đức Thánh nối dòng Đại Vương
Chúng đệ tử đèn hương phụng sự
Dốc một lòng không dám đơn sai
Ơn Bà ban lộc tiếp tài
Trẻ già mạnh khỏe, gái trai xum vầy
Thiên thu hưởng bát muôn xuân
Khuông phù đệ tử xuân lai thọ trường!
Bản văn thứ chín – Văn Mẫu Sòng
Trong Nam Hải dị nhân liệt truyện
Bậc thần tiên dấu vết càng yêu
Xem trong lịch sử Chúa Tiên
Bất sinh bất diệt chép biên rành rành
Trong Nam thành Nghĩa Hưng Thiên Bản
Tổng Thiên Hương, Vân Cát thôn quê
Thái công người ấy họ Lê
Tu nhân tích đức chuyên về làm nhân
Thái công vẫn ân cần làm phúc
Tuổi bảy mươi sinh được một trai
Thái bà liền lại có thai
Bệnh không ăn uống ưa mùi hương hoa
Cả nhà sợ cho là ma quỷ
Lập đàn tràng cúng lễ nguy nga
Bệnh đau ngày một thêm ra
Hết đường chạy chữa thuốc thang mà cầu
Năm tháng tám đêm thâu gió mát
Thấy một người đầu trắng phơ phơ
Tay cầm búa ngọc nhởn nhơ
Miệng đọc thần chú giáng qua bản đàn
Thái công bỗng hồn tan phách lạc
Ngẫm mơ màng một giấc chiêm bao
Thấy hai lực sĩ bước vào
Dẫn lên kim quyết ngôi cao nghìn trùng
Trên thượng giới hội đồng khánh thọ
Dưới sân rồng văn vũ quỳ tâu
Cung nga thể nữ đứng hầu
Mẫu dâng chén ngọc đứng hầu tận nơi
Tự nhiên sảy tay nơi mật phủ
Quan Nam Tào cầm sổ chép biên
Dẫn lên ra lối Nam Thiên
Trông lên thấy bảng đôi bên chữ đề
Thái công hỏi sự gì chẳng tỏ
Cớ làm sao thấy lạ lùng thay
Hai ông quỳ gối tâu bày
Liễu Hạnh Công Chúa bắt đầy trần gian
Ông chợt tỉnh giấc vàng mở mắt
Thấy thái bà liền nở cánh hoa
Hương thơm ngào ngạt gần xa
Mừng thầm người ở cung nga mới về
Bụng bảo dạ con trời mượn cửa
Đặt tên lành công chúa Giáng Tiên
Phòng loan dưỡng dục sớm đêm
Cầm kỳ thi hoạ sách đèn ngâm nga
Đàn thập lục gảy hoà gió khúc
Thi bốn miền miệng đọc vang ca
Mấy cung gió táp mưa sa
Thái công nghe thấy xót xa trong lòng
Mới ướm hỏi Trần công sau trước
Rằng đến đây được phước là bao
Sớm sinh một gái má đào
Xin làm dưỡng tử nương vào cửa công
Duyên sắp nhẽ thuận tòng nhân quả
Trần lão vốn ở Tiên Hương quan
Vốn dòng thế phiệt đường đường
Chồi non chưa có cậy nương tuổi già
Đêm trăng thanh vườn hoa dạo gót
Gốc cây đào bỗng thấy hài nhi
Ngẫm rằng thượng đế thương vì
Cửa nhà cô quạnh thời khi lửa hồng
Đôi tay bế vào lòng dưỡng dục
Đặt tên là danh ốc Đào Lang
Thiên tú diện mạo khác thường
Tài hoa có một văn chương ai tày
Khiến nguyệt lão xe dây tơ đỏ
Kết duyên cùng công chúa sánh đôi
Đuốc hoa soi tỏ chén mời
Khách tiên thời lại với người tiên nga
Cảnh vui thay ba nhà đoàn tụ
Lúc lửa gương vừa đủ ba đông
Duyên mong đâu ứng biến hùng
Trứng rồng lại nở ra rồng lạ chi
Ngày mồng ba tháng ba ấy nhẽ
Có ai ngờ hợp để rồi xa
Đương cơn phách nguyệt hồn hoa
Hai mươi mốt tuổi phút đà về tiên
Chẳng ngỡ rằng là duyên hay nợ
Mới biết là Mẫu thiệt anh linh
Nhân duyên chưa tắt mối tình
Dường về đứng ở bên mình chưa hay
Thái bà cầm lấy tay chưa tỏ
Thực con mình vẫn ngỡ chiêm bao
Ba nhà đưa đến trước sau
Ung dung mới hỏi mấy câu sự tình
Nay con ở dương đình mẫu lệ
Phải về chầu Thượng Đế Thiên Cung
Ba nhà ở có âm công
Sau này mới được non bồng cảnh tiên
Gặp thấy được thoắt liền biến mất
Mới biết rằng Mẫu thiệt anh linh
Nhân duyên chưa dứt mối tình
Hiện về đứng ở bên mình lang quân
Lang quân lộ muôn phần mừng rỡ
Ẵm hoàng nam than thở khúc nôi
Thăm rồi Mẫu lại ra chơi
Biết đâu mặt bể chân trời mà mong
Mẫu từ đó linh thông biến hoá
Thường đi về mây gió luôn luôn
Thoắt đầu chơi cảnh Lạng Sơn
Cảnh thanh gió mát gảy đàn ngâm nga
Cũng có phen Mẫu ra thành thị
Cảnh Tây Hồ nhị thuỷ chèo chơi
Văn nhân tú cử hỡi người
Phú thơ ngâm hoạ đôi lời bấy lâu
Mẫu từ đó tới đâu hiển thánh
Vào Nghệ An dạo cảnh Thanh Hoa
Đồi Ngang Phố Cát vào ra
Vi nam vi nữ ai mà biết hay
Mới ra tay thử lòng trần thế
Đến khi cầu cúng lễ mới an
Sứ thần làm sớ kêu van
Vua sai dân lập ngôi đền nguy nga
Phùng quân sứ về qua tới đó
Thấy họ làm thần tượng như in
Đoán rằng Liễu Hạnh Chúa Tiên
Bèn sai dân lập ngôi đền trang nghiêm
Phong bốn chữ Mã Hoàng Bồ Tát
Lại càng thêm tối tú hơn xưa
Phép màu làm gió làm mưa
Đánh tan giặc giã giúp vua mấy kỳ
Chữ Chế Thắng đề ghi tên hiệu
Sắc vua phong Hoà Diệu Đại Vương
Lâu đài điện các đường đường
Ngàn thu ghi để bốn phương dân cầu
Dẫn sự tích văn Chầu một bản
Ngày mồng ba khánh đản Chúa Tiên
Thỉnh mời Mẫu giáng bản đền
Khuông phù đệ tử thiên niên thọ trường!
Bản văn thứ mười – Thánh Mẫu Ca Đàn Văn
Thánh Chúa an bàn, đệ tử tôi đàn:
Phụng sự Thần Tiên Nữ
Tiền duyên sinh ở thượng giới
Tiên cung Vua Ngọc Hoàng, lồ lộ ngai rồng
Quản tam giới, Linh Tiêu chính ngự
Bát muôn tiên nữ, lá ngọc cành vàng
Quyền tóm thu thế giới vạn bang
Vận thần lực, linh thông biến hoá
Nhân ngày khánh hạ yến mở trường sinh
Bài ban ban khắp hết thiên đình
Sân đan quế tiêu thiều nhạc vũ
Văn thần võ sĩ ngọc nữ tiên phi
Cửa kỳ lân, phượng múa nghệ quỳ
Trên bảo điện, thiên nhan chỉ xích
Nguy nguy đãng đãng hách hách dương dương
Thoang thoảng đưa nhang xạ ngát hương
Hây hây nức yến chi tô hợp
Nhặt khoan thánh thót, tơ trúc đội tuần
Đàn ngũ âm, gảy khúc nam xuân
Đỉnh đang điểm cung ba nhịp bảy
Tiêu thiều lừng lẫy lễ nhạc thung dung
Tiệc lưu ly báu ngọc lạ lùng
Chén hổ phách quỳnh tương thứ tự
Có Tiên Thánh Nữ cách điệu dịu dàng
Trước ngọc lầu dâng chuốc chén vàng
Rót rượu lỡ sảy tay vô ý
Vua Cha Thánh Đế: Thiên nhãn phi dao
Động uy nghi Thiên tử long bào
Lôi đình nổi bất phân thời khắc
Khi doanh khi trắc thiên tạo biến hình
Cải Thiên đình đày xuống Dương đình
Đủ ngày lại lên chầu Thượng Đế
Việt Nam tú khí Thiên Bản địa linh
Trấn Sơn Nam, An Thái xã danh
Thôn Vân Cát trâm anh lệnh tộc
Điềm trời giáng phúc, đãi cát được vàng
Mãn nguyệt liền sực nức mùi lan
Đội ơn đức thụ thai Thánh Mẫu
Tốt tươi dung mỹ vóc ngọc da ngà
Phi công ơn cha mẹ sinh ra
Nâng niu thoắt mỗi ngày mỗi khác
Tóc mây hương thoảng da trắng lạ lùng
Điểm yên chi má đỏ hồng hồng
Đôi mắt phượng lóng la lóng lánh
Tai đeo vàng cánh chân dận hài hoa
Điệu lưng ong dáng ngọc thướt tha
Tươi vẻ ngọc miệng cười hoa nở
Đêm ngày dưỡng dục màn vóc phượng long
Tựa lan can, thác bức bình phong
Lược ngà chải, gương loan điểm đót
Khăn hồng chau chuốt phấn ngọc điểm trang
Gẩy đàn ca tang tính tình tang
Đàn dạo khúc hảo cầu quân tử
Lương duyên đổi chữ đã định thiên duyên
Chốn màn loan lá thắm đưa tin
Cánh phụng đã chắp cao bay bổng
Tin xuân vừa đến đào bỗng nở hoa
Bỗng xui lên Hồ Việt nhất gia
Tơ hồng đã dây xe sau trước
Duyên ưa cá nước, phận gái cưỡi rồng
Họp nhà hương, mở hội thung dung
Đào thi vịnh: nghi gia nghi thất
Khúc hoà cầm sắt, hội hợp tân nương
Chăn cù trau, đượm nức mùi hương
Tinh thần ngọc động phòng hoa chúc
Ngàn vàng một khắc bể ái nguồn ân
Ngầm duyên nay đã thắm mười phân
Trời già mặc không già duyên nhỉ
Tào khang chi nghĩa biên bạc non vàng
Đàn ngũ huyền dạo khúc dậy vang
Nhà vàng nổi cành vàng lá ngọc
Phòng loan xạ nức cửa tú xông hương
Trứng rồng nay lại nở ra rồng
Người quân tử theo dòng quân tử
Sum vầy một cửa hoè quế rườm rà
Còn mải vui yến phượng oanh ca
Hiệu thiên đã: ngự trà nhớ đến
Lệnh truyền chỉ khiến: phản giá hồi cung
Các bạn tiên rong ruổi xe rồng
Đưa Chúa đến Linh Tiêu Nguyệt Điện
Lại thêm cách biệt đôi ngả đôi nơi
Trách trăng già khéo quải duyên ai
Duyên kim cải xui lên biến cải
Nguyệt thu kia hỡi trăng sáng đương tròn
Hỏi gió mây rằng mất hay còn
Cho trăng khuyết đâu còn chi để
Bao nhiêu sự thể ngoảnh mặt làm thinh
Tuy rằng về chầu chực thiên đình
Lòng còn nhớ chốn quê Vân Cát
Ruột loan vấn vít tơ trục bồi hồi
Ở một nơi lại nhớ một nơi
Xem chẳng khác Ngưu Lang, Chức Nữ
Thiên tào cách trở, yến Bắc nhạn Nam
Chẳng nhớ thời biển chút cho cam
Nghĩ khôn cầm lòng tây sao được
Bèn vào tâu trước Thượng Đế thiên nhan
Rằng duyên con còn nợ dương gian
Cho mãn nguyện ba sinh sẽ hoá
Ngự tình đại xá thánh đức hiếu sinh
Bèn trở ra bái tạ thiên đình
Giáng sinh xuống huyện Thiên một khắc
Gió đưa hương nức thu nhạn đưa tin
Qua mấy nơi cảnh vật lạ nhìn
Kìa mai liễu hoa cười hớn hở
Nhện sa trước cửa hoè dãy hai bên
Thác trấn song con tiện bỏ then
Tay mở bức bình phong ren rén
Chúa vừa bước đến chốn cũ sảnh đường
Ẵm con thơ chạnh nỗi nhớ thương
Thấy cảnh cũ lại càng cảm thống
Chạnh lòng dễ động than thở tiêu hao
Nỗi xót xa giọt lệ tuôn trào
Trông ra thấy lang quân vừa đến
Lòng mừng dễ khiến, nào nỗi ái ân
Nhất thời vạn hữu, nhất thời tân
Duyên nay đã thắm duyên hơn trước
Phi lòng cá nước toại chí rồng mây
Dẫu xe lên nghĩa ấy duyên này
Trăng đã khuyết lại tròn vành vạnh
Tiếng cơn say tình ấp ngọc tựa vàng
Ấy duyên xưa nghĩa cũ còn mang
Chúa Tiên mới kể khoan sau trước
Kìa non nọ nước nông nỗi xa gần
Xin thưa rằng ăn ở có nhân
Trời chẳng phụ nhân duyên đôi chữ
Dù lên hương lửa nghĩa ấy phi thường
Cầm như ai chưa được tỏ tường
Cho nên khiến lòng vàng đeo thảm
Mẹ cha thương cảm Chúa lại thẩn thơ
Chịu nguồn cơn mưa gió vẩn vơ
Đoạn thôi lại xa xôi đôi ngả
Thần thông biến hóa nương gió cưỡi mây
Dạo bốn phương nam bắc đông tây
Tìm những chốn non bồng nước nhược
Kìa non nọ nước, sơn thủy hữu tình
Cảnh thành đô đâu chẳng xinh xinh
Nguồn hội ngộ phi lòng trăng gió
Đài kia gác nọ, quán Sở lầu Tần
Dải giang sơn, đâu chẳng thanh tân
Từng dạo khắp trời nam muôn ngả
Thanh Hóa đất lạ mạch án thủy huyền
Cõi Đồi Ngang đất tốt tự nhiên
Cảnh thiên tạo thực miền long huyệt
Địa linh nhân kiệt thiên lý lai long
Giếng âm dương leo lẻo nước trong
Thừa bóng mát trăng trong phơi phới
Bốn mùa hằng lại, tám bức bình phong
Thấy cảnh thanh Tiên Chúa vừa lòng
Hiện chân tính duyên ưa tình nặng
Áo xanh quần trắng tóc phượng lưng ong
Chinh chiện thay nhan sắc não nùng
Hợp tiên nữ dăm ba bạn cát
Phấn nhồi má hạc yếm thắm mày ngài
Áo mớ ba phơn phớt lòng trai
Mùi thơm nức hương đưa trầm sạ
Chim truyền cá nhắn trăm sự đinh ninh
Gẩy đàn ca tang tính tang tình
Tiếng thánh thót giọng loan to nhỏ
Giữa đường chính xứ khách quý vãng lai
Quán âm dương dọn bán hàng chơi
Chốn thanh lịch cùng người thanh quý
Sơn hào hải vị nem phượng chả lân
Người thanh tân cảnh lại thanh tân
Bày chinh chiện giường ngà chiếu ngọc
Màn sa cửa trúc con tiện đôi bên
Dù là gan vàng đá tự nhiên
Qua đây cũng vui niềm lạc thú
Tân kinh vương phủ quán Sở lầu Tần
Xem những người tài tử văn nhân
Ai lịch sự Chúa càng lịch sự
Vả sinh thánh tử rộng xá trần ai
Tiếc những người bạc phận duyên ôi
Lầm phải Chúa thấy đời từ đấy
Ai hoà vừa ý tốt phúc mới duyên
Thời ban cho bổng lộc Chúa Tiên
Càng thêm được vinh hoa phú quý
Thôi cơn hùng vĩ nghĩ lại từ bi
Rồi điểm trang chĩnh chiện dung nghi
Mầu gấm vóc sạ đưa hương nức
Lôi đình bộc bạch yểu điệu dịu dàng
Nào gió đẳng vương các tin trao
Sông ngân hán sẵn cầu ô nhịp
Kẻ Hồ người Việt hương lửa phải duyên
Đấng anh hùng sánh với thuyền quyên
Mở một cửa mai thanh trúc quý
Ấy mong tri kỷ gió lạnh sương rơi
Khen trăng già sao khéo trêu người
Tiên thượng giới bạn người hạ giới
Kết giao là ngãi hương lửa não nùng
Ân ái kia nào đã phi lòng
Riêng chỉ để lòng người bối rối
Gió trăng đã trải quý tộc thiết tha
Bỗng hay đầu non nước la đà
Cánh chim nhạn đã cao xa bay bổng.
Bản văn thứ mười một – Giáng Tiên Kỳ Lục Văn
Bỉ cách:
Sơn Nam Vân Cát giáng Tiên Hương
Ngọc nữ Quỳnh Hoa sắc hạ phàm tích hiển
Tây Hồ thi họa khách danh lam
Sòng Lĩnh chốn uy dương
Triệu hồi tử phủ loan dư hạc
Ảnh nguyệt quỳnh lâu khúc đoạn trường
Bất tử vang danh thiên hạ Mẫu
Cứu dân hộ quốc thọ vô cương
Miễu cách:
Nam Hải tích giáng tiên kì lục
Bắc sơn hà anh dục tú chung
Tây Hồ nguyệt lãng thanh phong
Dấu tiên Vân Cát vốn dòng Lê gia
Xã An Thái có nhà thế phiệt
Đã đời đời kiếp kiếp tu nhân
Từ đường hương hoả phụng thân
Còn hiếm cây ngọc trước sân muộn màng
Tâm hương thấu chín toà ngọc bệ
Sắc Quỳnh Hương đệ nhị đầu thai
Hoài nhân chín tháng lẻ mười
Thái công giấc quế hồn mai mơ màng
Cửa Kim Quyết rõ ràng trước mắt
Khúc nghê thường rạo rực sinh ca
Cửu thiên tiên nữ bách hoa
Tập bài văn võ sắp ra đôi hàng
Trên chín bệ ngai vàng lồ lộ
Chuốc chén quỳnh Thánh Chúa muôn xuân
Hồng y tiên tử ân cần
Gót tiên rón rén trước sân quỳnh đài
Bỗng sơ ý tay rơi chén ngọc
Nổi lôi đình tức tốc ai đương
Thống cách:
Lệnh truyền sắc giáng nam phương
Tiên nga ngọc nữ đưa đường như bay
Bóng quế rải hiện tây vằng vặc
Chốn phòng loan sực nức hương xông
Thái Công chợt tỉnh giấc nồng
Tin đâu Quỳnh Ngọc thâm cung nảy chồi
Vườn xuân sắc tốt tươi vẻ thắm
Nguyệt lầu lầu nhạn ngẩn ngơ bay
Song tình nét liễu hây hây
Tuyết in vẻ ngọc đắm say hương trời
Dòng Lê thị nối đời hương hoả
Chữ vô nam dụng nữ xá chi
Cù lao dưỡng dục sớm khuya
Tính Lê Quỳnh Ngọc chữ đề Giáng Tiên
Nền thi lễ cần chuyên sớm tối
Đức hiếu trung sáng rọi trời
Đông Ngụ tình tuyết nguyệt hoa phong
Ngũ âm lục luật làu thông mọi đường
Gặp vận nước cương thường điên đảo
Đấng anh hào há chịu khoanh tay
Xót đời bao nỗi chua cay
Hổ mình phận gái khôn xoay cuộc cờ
Dòng Lê thị đương cơn bĩ cực
Mạc chuyên quyền áp bức lê dân
Trí cao đã sắp cơ trần
Đinh ninh một dạ vì dân diệt thù
Cho xã tắc sơn hà một mối
Chí anh hùng há ngại gian lao
Ai hay lá thắm cờ đào
Chữ tòng sớm rắp buộc vào gót tiên
Hỏi Nguyệt Lão rằng duyên hay nợ
Bình cách:
Sớm phũ phàng định chữ vu quy
Quyết dùng thoát hoá mưu kì
Lấy sinh giả tử quản chi thân này
Sẵn bút ngọc thảo ngay từ chúc
Phận liễu bồ lánh đục về trong
Trăm năm trọn vẹn chữ tòng
Một niềm hiếu kính quyết không đổi rời
Nợ trần tục vừa đôi mươi mốt
Tạ từ đường nhẹ bước ra đi
Non côi mượn cửa từ bi
Nguyện vì dân tộc xá chi hiểm nghèo
Cơn binh cách xảy điều tai biến
Cờn luyện:
Xin Thế Tôn xuất hiện giải nguy
Lấy câu ngũ giới tam quy
Tiếng chuông thức tỉnh quần lê sớm chiều
Cam thất hiếu chịu điều tân khổ
Cửu giống nòi trăm họ lầm than
Tưởng rằng hạc lánh mây ngàn
Thung huyên thảm thiết chứa chan lệ sầu
Tiên hạc giá bồng châu doanh hải
Gắng tìm người nghĩa khái trung can
Đông Thành, Kẻ Sóc, Nghệ An, Thanh Hóa,
Phố Cát, Đồi Ngang, Núi Sòng
Giếng âm dương nước trong đôi mạch
Dựng lầu hồng núi bách
Thanh Hóa, Đồi Dâu, Quán Cháo bao xa
Khi vào Ba Dội khi ra Bắc thành
Quán Liễu thanh bên bờ chín giếng
Khách anh hùng bàn chuyện quân cơ
Phú chênh:
Ngày vui chén rượu cuộc cờ
Ướm lời non nước để thơ tương phùng
Đêm thao luyện võ công kiếm kích
Sức phi thường tẩu bích như bay
Chiêu anh hùng quán dựng xây
Lệnh nghiêm Thánh Chúa ra tay kẻo nhờn
Cõi Sùng Lĩnh bao cơn sấm động
Lũ vương tôn cùng giống hại dân
Phũ phàng cõi tục lần khân
Đáng đời hết kiếp những quân bạo tàn
Chốn rừng thẳm danh vang từ đấy
Khắp xa gần ai nấy nức danh
Mặc dầu làm chúa làm tinh
Khách trần hồ dễ mắt xanh lọt vào
Khắp bồng đảo tiêu dao mặc sức
Tìm ai người hữu đức hữu danh
Tiếng đồn xứ Lạng, Tam Thanh
Có nàng Tô Thị có thành biên quan
Phân ranh giới Nam phương Bắc quốc
Phùng sứ quân nhẹ gánh hồi bang
Vó câu rong ruổi dặm ngàn
Vẳng nghe khúc nhạc dịu dàng đầu non
Tiếng văng vẳng gọi hồn cố quốc
Khách văn nhân lạc bước Thiên Thai
Trên non bỗng thấy một người
Tiếng oanh réo rắt như khơi nỗi lòng
Ba cây gỗ xếp chồng làm một
Hỏi ai người trụ cột giang sơn
Một cây hô dễ lên non
Ba cây chụm lại lên hòn núi cao
Phùng sứ bỗng thấy điều kì dị
Gỗ xếp hàng tẩu dĩ mã băng
Mộc đề mão khẩu tiên
Thuỳ sơn xuất xứ hạnh Phùng văn nhân
Sơn đổi cạnh lòng trấn như ngợi
Bỗng cơn đâu gió thổi lá bay
Bóng hồng đã khuất non Tây
Nhạc thiều còn vẳng hương bay ngát trời
Dọc xuân:
Phùng giục ngựa về nơi kinh địa
Hai năm sau chí sĩ hồi hương
Rượu bầu thơ túi xênh xang
Chạnh lòng nhớ lại khúc đàn năm xưa
Bèn dạo gót Tây Hồ phong nguyệt
Nước long lanh trời biếc non xanh
Trăm hoa ríu rít chim cành
Lầu trong đã thấy hiện hình xa xa
Lần bước tới thăm hoa dạo cảnh
Nhác thấy người đoạn chính anh thư
Hầu bên hai ả đào tơ
Rượu tiên bình ngọc lý ngư đượm mùi
Diện đối diện đôi hồi chủ khách
Rượu ba tuần đàn địch sáo chênh
Vang vang khúc nhạc thanh bình
Vi vu địch lộng chênh chênh tiếng vàng
Phú nói:
Lời non nước tơ tường gặng hỏi
Trí Trương Hàm mở hội lập công
Thảo lư ấn bóng anh hùng
Đã lòng hạ cổ tơ lòng hôm mai
Phùng biết ý như say chợt tỉnh
Bỗng mặt hồ gió lạnh mây trôi
Tạ từ cảm kích lòng người
Khắp câu quốc vận bầy lời non sông
Hiềm vì nỗi quang âm bặt phát
Chí bình sinh bạc nhược còn đâu
Di du trúc trượng giang đâu
Chữ trung giành để người sau dõi truyền
Kể từ buổi khách tiên kì ngộ
Lời ngọc vàng còn ở bên tai
Lý ngư rượu cúc bén mùi
Vui cùng đôi bạn tới nơi mặt hồ
Sung cổ thụ vi lộ hưu hắt
Bóng tiên nương biệt tích nơi đâu
Nhấp nhô sóng vỗ bạc đầu
Bên cây còn vạch mấy câu hoạ vần
Thơ:
Vân tác y thường phong tác xa
Triều du Đâu Suất mộ yên hà
Thế gian dục thức ngô danh tính
Nhất đái sơn nhân Ngọc Quỳnh Hoa
Vãn cách:
Bấy lâu cách trở sơn hà
Nhớ quê Vân Cát mẹ cha xóm làng
Chúa từ trở lại quê hương
Thăm cha thăm mẹ xóm làng duyên xưa
Thăm thôi trở lại Thanh Hoa
Bên đèo quán mát rừng già luyện quân
Trăm ngàn mĩ nữ thanh xuân
Kẻ ra quan lộ người tuần rừng ngang
Kể chuyện: Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh phố phường
Tiếng đồn cô Tú đèo Ngang núi Sòng
Ai qua Phố Cát suối trong
Cờn xuân:
Thăm hàng cô Tú núi Sòng bao xa
Nhị cú: Đôi phen dấy động sơn hà
Chim hồng tung cánh bao la phương trời
Hay đâu nguyệt lão trêu người
Cơ duyên lại mắc cho người tài danh
Có người Kẻ Sóc Đông Thành
Văn thao võ lược thông minh tuyệt vời
Gần xa vang tiếng nữ tài
Tìm cho biết mặt biết người biết tên
Hạnh phùng khách tục nàng tiên
Trong tình non nước ngoài duyên cầm kì
Mặn nồng lá thắm thư đề
Trúc mai sum họp quê hoè nở bông
Bấy lâu thanh khí tương phùng
Chữ duyên đã vẹn chữ trung cũng tròn
Một niềm định tĩnh thần hồn
Chữ tòng đã tỏ nhường gương lầu lầu
Trời cao bề rộng sông sâu
Ai hay con tạo cơ cầu trêu ngươi
Phú nói:
Bỗng một phút sao dời vật đổi
Tiết sơ tam đầu hội thanh minh
Buồng xuân hiu hắt trướng quỳnh
Gối đầu hai trẻ bên mình thiu thiu
Chợt nghe tiếng nhạc thiều văng vẳng
Bạn tiên hằng lững thững ngoài hiên
Chập chờn tuyết phủ sương in
Rằng vâng ngọc chỉ rước tiên về trời
Giấc mộng tinh mấy lời còn nhớ
Ắt hẳn rằng cớ sự chi đây
Bồi hồi dạ én chưa khuây
Ngổn ngang nghĩa trước thương thay tình nhà
Lời mật dụ truyền ra Ba Dội
Vời lang quân thăng lối tin chày
Tơ duyên ngắn ngủi bấy nay
Non sông nặng gánh trao tay bạn hiền
Phú dầu:
Tình non nước nên duyên chăn gối
Tạ lòng vàng xin đợi mai sau
Xót tình con trẻ bấy lâu
Xa con lòng thiếp trăm sầu ngàn thương
Đành hai ngả âm dương cách biệt
Dao cắt lòng thảm thiết châu rơi
Phận đành nước chảy hoa trôi
Thấm nhuần cây cỏ muôn đời mai sau
Gương nữ kiệt cùng nhau soi mãi
Ngọn cờ đào áo vải nên công
Nữ lưu tỏ mặt anh hùng
Mở đường con cháu Lạc Hồng bước lên
Lời vàng ngọc phán truyền vừa dứt
Trở xe hồng phút ngắt xa bay
Phượng hoàng vỗ cánh lên mây
Ngựa về cửa ải lá cây về rừng
Dọc nhị cú:
Chúa từ buổi thoát vòng trần tục
Đức oai linh như giục thế gian
Nơi xưa dọn quán bán hàng
Nhân dân lập miếu dựng đền kỳ công
Đèo Ba Dội Đền Sòng Phố Cát
Giếng âm dương quán mát ai hay
Âm thầm chờ gió non tây
Phất cờ nương tử tung bay Long Thành
Khắp Nam Bắc nức danh từ đấy
Tiếng anh linh đã dậy gần xa
Đồn rằng Nghệ Tĩnh Thanh Hóa
Chúa tinh thần nữ hiện ra hại người
Tin báo cấp về nơi kinh địa
Hạ lệnh truyền tướng sĩ ra binh
Ẩm ầm nổi trận lôi đình
Dẫu sông cũng lấp dẫu thành cũng tan
Lửa đốt sạch Đồi Ngang Phố Cát
Phá tan hoang quán mát mọi nơi
Trách rằng đã cậy uy trời
Xem cơ tạo hoá trêu ngươi sau này
Kiều dương: Xứ Thanh Hoa từ ngày ách biến
Bóng liễu dương xuất hiện nơi nơi
Tiên dù lánh hạc về trời
Hồn thiêng vẫn ở lòng người thế gian
Khắp ba cõi thiện nam tín nữ
Tự xưng là Liễu Chúa ra oai
Làm cho chuyển đất động trời
Ruộng đồng nứt nẻ sông ngòi tiêu khô
Lửa đốt cháy kinh đô thành ngoại
Nước lan tràn hà hải mênh mông
Sóng xô bão giật đùng đùng
Bờ kia cõi nọ nổi ong ào ào
Nỗi cơ cực kêu nào ai thấu
Cảnh bần hàn cá lặn chim kinh
Nhân dân biểu tấu đồng tình
Lập đền thờ Chúa dân lành đội ơn
Hãm cách:
Bỗng biên ải Chiêm Man dấy động
Lệnh triều đình gióng trống ra binh
Bao phen giáp chiến tung hoành
Khôn đương sức giặc Chiêm Thành cường hung
Lui quân sĩ qua vùng Phố Cát
Giếng âm dương bóng mát nghỉ ngơi
Canh ba xuất hiện một người
Tâu xin dẹp giặc vì đời ra tay
Giấc mộng tỉnh vừa hay tin báo
Giặc Chiêm thành đường đạo tiến truy
Đùng đùng nổi giận bốn bề
Quân reo ngựa hý bổ vây trùng trùng
Dồn cách:
Cơn gió cuốn mịt mùng các ngả
Hướng quân Chiêm cát đá tung bay
Thiêu hồn địa xám đêm ngày
Giặc Chiêm phút đã bó tay đầu hàng
Lệnh khải hoàn gia ban Chế Thắng
Tước Đại Vương truy tặng Mẫu Nghi
Ngẫm câu sinh ký tử quy
Chữ sinh kia có ra chi mới là
Sinh cứu được muôn nhà hạnh phúc
Tiếng thơm bay khắp cả nơi nơi
Sắc thân tuy đã qua đời
Tử mà bất tử muôn người ca vang
Pháp thân tựa hào quang sáng tỏ
Soi loài người soi cả càn khôn
Anh linh thác vẫn như còn
Ngàn năm bất tử cháu con tiên rồng.
Bản văn thứ mười hai – Tiên Phả Dịch Lục của Kiều Oánh Mậu
Đoạn 1: Đại ý tổng quát
Trời Nam chung tú mới kỳ,
Bốn người bất tử lại vì nữ Tiên.
Thần Phù Đổng, Thánh Tản Viên,
Đánh Ân, dẹp Thục công yên nước nhà.
Chử Đồng Tử truyện sách ta,
Lam Sơn chân chúa hiển ra mách người.
Nguyễn Minh Không chốn Phật đài,
Thần thông lục trí nước ngoài biết tên.
Nay người đệ Nhị cung Tiên,
Phong lưu Ngọc Quýnh Hoa trên thiên đình.
Sáng soi thiện ác rành rành,
Thay trời họa phúc quyền hành một phương.
Kìa kìa hiển tích rõ ràng,
Chớ đem mắt quỷ coi thường người tiên.
Tiên Hương xã ấy huyện Thiên,
Về Sơn Nam trấn cạnh miền núi Gôi.
Đoạn 2: Thái ông đời trước tích lũy
Khí thiêng hội lại mấy đời,
Phả ghi cao tổ vốn nòi Trần gia.
Hồ – Minh gặp loạn lánh ra,
Đổi theo Lê tính quê nhà mẫu hương.
Xưa kia An Thái tên làng,
Hẹp ngôi cát trạch, rộng đường thiện lân.
Cho hay nhân mọc có nhân,
Gia tư súc tích muôn phần giàu sang.
Thiên tai mấy độ cơ hoang,
Mỗi nơi già trẻ một trường thí ân.
Ba đời con Thánh cháu Thần,
La Hào chốn ấy tổ phần dời sang.
Nghĩ câu thần tứ khôn lường,
Thái ông đương lúc mơ màng biết ai.
Bốn mươi tuổi mới một trai,
Âm công càng tích đơn sai chẳng hề.
Đoạn 3: Tiên Chúa giáng trần
Anh Tông vừa thuở hậu Lê,
Thái bà Trần thị nặng bề hoài thai.
Dạ mang đã quá kỳ rồi,
Phút đâu một bệnh đứng ngồi không yên.
Miệng thời bén những mùi thiền,
Trân cam chẳng chút dâng lên bữa thường.
Tính thời ưa những hoa hương,
Bụi trần chẳng chút trong trường phồn hoa.
Nặng nề nay lại mai qua,
Trong ngoài tưởng những ma tà khơi trêu.
Bùa khua quái, chĩnh trừ yêu,
Mười phần bệnh thế chẳng tiêu một phần.
Cửa ngoài bỗng có đạo nhân,
Áo bào, khăn cát trong sân tiến vào.
Gia nhân từ tạ xôn xao,
Thái ông nghe tiếng mời chào bên trong.
Cao tay hàng hổ phục long,
Thông thiên mật chúc hương xông chưa tàn.
Tay gieo búa ngọc trước đàn,
Thái ông phút đã mê man trong nhà.
Thấy hai lực sĩ đi ra,
Thành vàng lầu ngọc một tòa cao cao.
Chín lần cửa mới bước vào,
Tả vu đứng trực ai nào biết ai.
Trông lên “Thọ tịch xuân khai”,
Quần tiên hội chúc bên ngai Ngọc Hoàng.
Hồng y bỗng thấy một nàng,
Đưa dâng chén ngọc vội vàng sẩy tay.
Tả ban một vị đứng ngay,
Mở xem quyển bạ viết đây mấy dòng.
Viết rồi đi lại bên trong,
Thị nhi thấy dẫn người hồng y ra.
Thái ông phảng phất ngoài xa,
Nhận tường sắc giáng chữ là không sai.
Dẫn đi có một kim bài,
“Nam nam” lại thấy có hai chữ đề.
Thái ông lúc đó đứng nghe,
Hỏi hai lực sĩ mọi bề đinh ninh.
Trước sau mới tỏ sự tình,
Tiên cung đệ Nhị Thiên đình trích ra.
Cửa trong chợt có tiếng la:
“Người đâu tào tạp huyên hoa chốn này?”
Thái ông vừa tỉnh giấc say,
Thềm huyên vừa đến sớm ngày nở hoa.
Mỹ miều nguyệt điện Hằng Nga,
Ngoài hiên bỗng sáng, trong nhà thơm bay.
Gia nhân vui vẻ mừng thay,
Đạo nhân phút đã hạc mây phương nào.
Thái ông tưởng sự chiêm bao,
Biết rằng người chốn Tiên tào mới sa.
Giáng Tiên khi đặt tên nhà,
Năm đầu Thiên Hựu tháng Ba ngày Dần.
Cho hay mộng đó mà chân,
Lòng người thành kính, quỷ thần đâu xa.
Mê tâm ví chửa tỉnh ra,
Chân thân có đó cũng là mộng thôi.
Tuệ căn đã sớm mọc rồi,
Dẫu trong trần tục mà người Tiên cung.
Đoạn 4: Tiên chúa trưởng thành
Nâng niu xiết nỗi nhà trong,
Thố qua ác lại đã vòng cập kê.
Da tuyết đọng, tóc mây che,
Non xa xuân đạm, nước khe thu nhàn.
Giang sơn linh tú đuốc sang,
Kim thân một dạng ngọc nhan khác thường.
Ngày đêm vui thú thanh nhàn,
Muôn phô dạ chép, nghìn hàng mắt qua.
Bút nghiên khuya sớm thiết tha,
Thi từ âm luật lại là tài riêng.
“Xuân quang hảo” đã một thiên,
“Hạ thời lại”, “Cách phố liên” có bài.
“Bộ thiềm thu tứ” kém ai,
Đông thời lại điệu “Tiễn mai” nối vần.
Tài tình tiếng dậy xa gần,
Giáng Tiên, tùy trước, non phân chẳng nhường.
Thái ông hết tấc yêu thương,
Vườn hoa mới sửa, tịnh đường bên sau.
Một mình riêng một trang lầu,
Hoa xuân bốn phía, trăng thâu nửa rèm.
Cầm thư ngày nối lấy đêm,
Sang sảng tiếng đọc lẫn thêm tiếng đàn.
Lầu vàng chứa lấy người vàng,
Nguyên Long trăm thước ai ngang giá này.
Đoạn 5: Trời sinh đôi lứa
Vân Đình, giáp Nhị kề đây,
Nhà quan có một tôi ngay đời Trần.
Tiện nơi sẵn quán mẫu thân,
Đã dòng dõi cũ lại lân hữu tình.
Muộn màng giấc mộng chưa hình,
Cảnh sầu hỏi nguyệt, bộ hành thăm hoa.
Dưới đào nghe tiếng oa oa,
Động lòng thu lấy về nhà thử nuôi.
Đào Lang nhân đặt tên rồi,
Phong tư tinh tú cũng người trời sinh.
Nào hay rằng nghĩa minh linh,
Càng trong quấn quýt, càng tình thân yêu.
Cùng làng đi lại đã nhiều,
Một đà vừa một, đôi điều tốt đôi.
Vấn danh nạp thái đủ thôi,
Trang liêm sắp sửa cho người nghi gia.
Quan thư nở tiếng thi ca,
Ngoài thờ cô cậu, trong hòa lương nhân.
Ai hay cách biệt tiên trần,
Dâu con cũng việc tảo tần khác chi.
Đoạn 6: Phòng hương sớm tối
Từ phen vui chữ xướng tùy,
Ngẩn ngơ Sinh mới Lễ, Thi biếng nhìn.
Vừa khi canh cửi trời đêm,
Hai mươi tám vị sao trên soi người.
Khuyên chồng thác ý thi chơi,
Nào câu Khuê bích, nào lời Đẩu tinh.
Liễu văn kìa truyện đinh ninh,
Chủ trương xin phải tâm thanh nữ phòng.
Xem thơ Sinh đã biết lòng,
Đảo vần họa lại mấy dòng nên chương.
Trong thơ ý tứ khoe khoang,
Thông ngưu, quật tỉnh, tinh quang giác tài.
Gửi lời Chức Nữ một hai,
Hán – Trương, Đường – Liễu thua ai trên đời.
Thấy thơ lại phải hết lời,
Một câu một chữ tranh bày làm chi.
Ngày xanh xin chớ bỏ đi,
Nghìn thu sự nghiệp một thì công phu.
Mấy câu ném ngọc đưa châu,
Sinh rằng: “Cuồng phóng bấy lâu dại nhiều.
Bây giờ khuyên nhủ đến điều,
Lòng vàng đã dãi, sớm chiều dám quên.”
Trong khi cánh chắp, cành liền,
Ba sinh trên đá, tấm nguyền dưới khe.
Tình trong xiết nỗi ủ ê,
Tốt nơi ngô phượng, vui bề trúc loan.
Ba năm chăn gối vội vàng,
Vừa tuần xuân cuối, hoa tàn lộc phơi.
Cạnh bên lò lửa hai người,
Tình đầm đầm ấm, lệ rơi rơi đầy.
Sinh vừa thất sắc hỏi ngay,
Nhỏ to mới kể sự ngày Đế hương:
“Thiếp xưa thượng giới một nàng,
Tiệc xuân chén ngọc nhỡ nhàng sẩy tay,
Thiên Tào án luật định ngay,
Hai mươi năm đó, xuống đày trần gian.
Tóc tơ kết nghĩa cùng chàng,
Hạn kỳ đã đến Thiên đàng lại lên.
Cũng là túc thế nhân duyên,
Bi, hoan, ly, hợp ở trên định rồi.
Thôi, thôi, thôi cũng đành thôi,
Lệ hồng chan chứa than ôi ích gì.”
Trời hôm mây kéo mưa đi,
Người thời không bệnh hồn thì đâu xa.
Giữa năm Đinh Sửu, tháng Ba,
Mồng ba ngày ấy, tiết là Thanh minh.
Mới hai mươi mốt tuổi xanh,
Ba năm duyên vắn, tấm tình bể dâu.
Cây đa chốn ấy mộ khâu,
Phân minh Tốn hướng Thổ lưu Kim hình.
Đôi bên ai chẳng xót tình,
Đứt dây này nỗi Đào Sinh càng rầu.
Biết bao gió thảm mưa sầu,
Nào bài biệt hạc, nào câu ai hồng.
Kể sao xiết nỗi tình chung,
Lạ lùng này sự Tiên trong cõi trần.
Đoạn 8: Nhớ những ngày khó nhọc
Thoi đưa ngày tháng lần lần,
Đại tường lại gặp đến tuần trùng tam.
Thái bà nhớ thuở trân cam,
Hoa lâu tới chốn thư am mỗi ngày.
Gió chiều phấp phới rèm bay,
Mặt trời bóng xế soi ngay thềm nhà.
Phòng thêu tơ nhện giăng qua,
Phím đàn, quản bút mọt sa bụi lầm.
Nhớ người dạ những âm thầm,
Bấy giờ thấy cảnh khôn cầm giọt riêng.
Nhà trong lăn lóc cây huyên,
Gió thơm đâu thảng cạnh bên một người.
Hai tay ôm lấy tận nơi,
“Mẹ ơi, con những phương trời khát khao.”
Thái bà mừng sợ xiết bao,
Hỏi rằng: “Con ở chốn nào lại đây?
Tưởng rằng tử biệt từ ngày,
Hay là con vẫn xưa rày trường sinh.”
Nghe lời chưa kịp giãi tình,
Hai hàng nước mắt, chảy quanh khôn dừng.
Tin Hằng đã xuống dưới trăng,
Đôi bên thân thuộc vội mừng trước sau.
Thấy hai lão phụ càng đau,
Rằng: “Con thất hiếu bấy lâu không đành,
Sớm khuya mong chốn gia đình,
Bốn thân được thỏa một mình mới yên.
Nào hay bất trắc cơ huyền,
Khôn ngoan ai dễ tranh quyền hóa nhi.
Hãy xin hỷ xả từ bi,
Tấm lòng để lại con đi cho đành.”
Thấy anh dặn với đinh ninh:
“Thần hôn xin đỡ, tấm thành em đây.”
Đào Sinh đứng đó người ngây,
Chút riêng chưa kịp giãi bày một hai.
Xiêm nghê nhác thấy gió bay,
Vội vàng Sinh mới cầm tay kéo vào.
Khóc rằng: “Duyên sẵn đã trao,
Trước dầu phận bạc, nay sao nỡ lìa.
Ví dầu mưa rẽ, mây chia,
Bên trời xin cũng theo về một nơi!”
Thiết tình lại phải hết lời,
Rằng: “Duyên kiếp thế có trời đất chung,
Thiếp từ trở lại Thiên cung,
Chút riêng ân ái nghìn trùng xét soi.
Tiên tào đã gửi tấu rồi,
Cõi trần lại được bên ngoài thong dong.
Đội ơn mấy chữ sắc phong,
Hiệu nay Liễu Hạnh, theo công chúa hàng.
Thiếp xưa Thượng giới tiên nương,
Chàng nay Đế Sở Linh Lang xuống trần.
Tơ duyên xe đã một lần,
Mà trong bể ái muôn phần càng sâu.
Vài mươi năm nữa chẳng lâu,
Gặp nhau ta lại cùng nhau vội gì!”
Nói xong dứt áo ra đi,
Xe mây ngựa gió thấy chi nữa nào.
Thiên Thai khi lại trở vào,
Lưu Lang chưa dễ hỏi chào ngọc trâm.
Người Tiên đây bạn kiếp trần,
Càng trong âu yếm càng phần ái ân.
Cha cha, mẹ mẹ, con con,
Trăm năm ghi để tấm son lâu dài.
Chồng chồng, vợ vợ, ai ai,
Nghìn thu dấu để trên đời lửa hương.
Đã khi biến hóa không thường,
Từng phen đi lại mỗi đường thăm nom.
Đoạn 9: Dạo chơi thắng cảnh
Tới nơi thung héo, huyên mòn,
Hoa đào vắng mặt, năm còn gió đông.
Chút riêng bận bịu đã không,
Một mình rồi mới rộng lòng vân du.
Khi nguyệt điện, khi hoa cù,
Khi xuân oanh rước, khi thu nhạn mời.
Khi Lãng Uyển, khi Bồng Lai,
Khi nay Lăng Tử khi mai cửa huyền.
Khi thời mỹ nữ thanh niên,
Mình theo bóng tố ngâm thiên trước đình.
Khi thời lão mụ ẩn hình,
Tay nương gậy trúc chơi quanh bên đường.
Thần thông biến hiện từng phương,
Cầu bay, thuyền khí tầm thường chớ khinh.
Kìa kìa nước biếc non xanh,
Mọi nơi danh thắng, một mình lại qua.
Đoạn 10: Gặp sứ giả ở chùa Thiên Minh
Thiên Minh chùa, tỉnh Lạng ta,
Âm thanh cảnh vắng xem ra vui lòng.
Tham thiền rồi mới quạnh trông,
Một ngồi chiếc ghế dưới tùng thảnh thơi.
Đàn đâu sẵn nhịp ca chơi,
Cõi rừng u điểu, cõi trời cô vân.
Đầy ngàn thơm nức hoa xuân,
Nước reo phách suối, gió luồn đàn thông.
Bốn bề bụi sạch người không,
Vỗ dậy mấy tiếng thỏa lòng tiêu dao.
Sơn lâm vui biết là bao,
Nghìn trùng tiên cảnh so nào kém đâu.
Hát rồi ai kẻ họa sau,
Xa đưa có tiếng đọc câu rành rành.
Câu rằng: “Tam mộc xâm đình”
“Hảo hề nữ tử” đem tình ướm ai?
Trông ra thấy có một người,
Khăn dài, áo rộng cũng loài thư hương.
Tiết mao dẫn trước trên đường,
Ruổi rong một ngựa kỷ cương mấy thằng.
Gần gần chúa đã biết chừng,
Tiếng vàng sang sảng thử chăng một lần.
“Trung sơn xuất lộ” câu thần,
Đem câu “Sứ giả lại nhân” đối liền.
Xem tài cũng chắc rằng Tiên,
Vội vàng xuống ngựa đứng bên hỏi tường.
Xa xa chúa lại chỉ sang,
“Kìa trong núi ấy là làng nhà đây.”
Nghe thôi, sứ giả đọc ngay,
Sơn nhân Tiên nữ thử nay xem tài.
Chúa liền đáp lại giả lời,
Đem câu văn tử hỏi người học sinh.
Biết tài mà phải phục tình,
Tay giơ một vái phách kinh đâu rồi.
Vào chùa tìm khắp mọi nơi,
Từ bi nào thấy Như Lai mách người.
Tuyệt mù tung tích nào ai,
Bước ra rồi lại chùa ngoài đứng trông.
Ngang đường thấy ngã cây tùng,
Rõ ràng “Mão Khẩu” chữ công chúa đề.
Xem ra lòng sứ càng ghê,
Cạnh cây bốn chữ bút phê lại rành,
Chữ trên “Băng Mã” đã đành,
Dưới liền “Dĩ Tẩu” phân minh một dòng.
Suy ra ý tứ ở trong,
Rằng ta Phùng tính khởi công đó mà.
Tức thời phụ lão gọi ra,
Kim ngân để lại, Phật tòa sáng thêm.
Rõ ràng hiển hiện cho xem,
Bốn câu ghi lấy làm tin sau này.
Đoạn 11: Ngâm vịnh nối tiếp ở Hồ Tây
Đông Kinh xe hạc lại bay,
Khi hôm trong phố, khi nay ngoài thành.
Báo Thiên rồi lại Hoành Đình,
Hòe Nhai rồi lại hiện hình Đông Tân.
Đi đi lại lại mấy lần,
Dấu tiên quanh đó mắt trần ai hay.
Phùng quan Bắc sứ về ngay,
Bạ thư lại phải đêm ngày chốn công.
Tưởng câu tiêu sái ngoài vòng,
Dẫu cho đeo ấn đã ông nào bằng.
Nhớ nhau dì gió, chị trăng,
Hồ Tây khi đó nay mừng không xa.
Rượu bầu đàn túi xách ra,
Lý, Ngô hai gã bạn nhà thiếu niên.
Vừa khi tháng hạ gió sen,
Hương thơm muôn hộc lọt bên thuyền người.
Cảnh thanh đầy một bầu trời,
Lão Phùng nhân hứng thơ chơi một bài.
Bôn ba danh lợi trên đời,
Nhàn thân phút đã bên ngoài Hồ Tây.
Bồng Lai là chuyện đặt bày,
Dẫu tiên, dẫu tục ở ngay lòng người.
Thấy thơ Ngô cũng đua bày,
Huống nay ngoại tục khi trời trung trinh.
Nhởn nhơ gió mát trăng thanh,
Rộng lòng đâu chẳng tênh tênh Tây Hồ.
Dòng tao, gã Lý nào thua,
Hoa mời liễu rước cùng đua thơ thuyền.
Giữa dòng chén cạn giấc êm,
Bừng con mắt dậy, câu tiên lệ gì.
Người phóng dật, kẻ thanh kỳ,
Thi trung khí tượng ai thì kém ai.
Gió đâu mùi quế hương lơi,
Có khi ả Tố tận nơi đón mời.
Trông nhau nói nói cười cười ,
Đường đê thẳng ruổi ba người trước sau.
Dãy hòe trong chốn sâu sâu,
Nhác trông thấy có tửu lâu một tòa.
Biển son bốn chữ nét hoa,
“Tây Hồ phong nguyệt” giữa nhà treo trên.
Cửa ngoài chữ thảo đôi bên,
“Hồ trung thành ngoại”, câu liền ngũ ngôn.
Nhàn nhật nguyệt, tiểu càn khôn,
Phong tao dường ấy thi hồn đã mê.
Áo hồng thấp thoáng rèm the,
Cách bình lại rẽ đứng kề mỹ nhân.
Lý ta lên tiếng ngoài sân,
Chốn nay đài Sở, lầu Tần nào đây.
Thừa nhàn được buổi hôm nay,
Chiếu hoa mượn trải hội bày đình lan.
Rằng: “Đây điếm mới Liễu Nương,
Người nay phong nhã văn chương ngại gì?”
Thừa lời đã có thị nhi,
Rèm the cao cuốn rước thi ông ngồi.
Ba người sửa áo đến nơi,
Nam song gió mát Hoàng Mai rượu mời.
Vách đông thấy có một bài,
Bốn câu tuyệt cú trêu người thi danh.
Lý ta xem ý cũng linh,
Trông hơn tám chữ, sửa thành mười hai.
Rằng người đã muốn huệ lai,
Há không một vật tặng ai trong này.
Cách bình nghe lọt giọng say,
Hoa tiên phút đã trao tay thị tỳ.
Rằng: “Đây phong vị có gì?
Đầu đề thơ đó kính vì đưa cay.
Xin ai quạt gió tung mây,
Gặp nhau cũng một chuyện hay trên đời.”
Mở xem Lý vội vâng lời,
“Tây Hồ khai vận một bài luật đây.”
Khiêm lời Phùng mới thưa ngay:
“Vâng người nhã ý xin rày liên ngâm.
Quê mùa dám nói tri âm,
Dương xuân xin xướng khúc vần cho theo.”
Tức thời ngọc nhả gấm thêu,
Một câu bảy chữ, vận đầu chữ “Thiên”.
Ba người theo vận nối liền,
Đào Nguyên đâu đó cũng duyên tao phùng.
Lần lần Ngô – Lý đã xong,
Ngân nga câu kết đến Phùng chửa nên.
Lầu trong nghe tiếng đọc lên,
Một vần rằng “Ngã thị Tiên” đủ bài.
Bỗng đâu ngư phủ một người,
Tay mang giỏ trúc, cá vài đuôi to.
Tiêu dao riêng thú bên hồ,
Ba câu hề đó hát cho nghe điều.
Trong nhà thị nữ ra theo,
Rượu đây cá đấy, ít nhiều nói chi.
Nửa giờ gỏi sống ngon kỳ,
Mỹ nhân rõ vẻ hồng y ra mời:
“Mấy khi quý khách qua chơi,
Dẫu rằng nhà hẹp, chiếu ngồi sáng ra.
Của đâu được tặng trong nhà,
Tầm thường dã vị gọi là đỡ say.”
Ngô rằng: “Đường đột vào đây,
Người thêm phiền lụy, tôi nay thẹn thùng.”
Nhiêu khê câu hát ngư ông,
Nghi lòng Lý mới hỏi cùng mỹ nhân.
Cuồng ca rằng ấy ba vần,
Chẳng qua cá rượu đổi lần có không?
Ba người chén gỏi đương nồng,
“Tam ngư tiên khoái” đứng trong đọc liền.
Lão Phùng tức cảnh ứng lên,
Đem câu “lưỡng cá trúc diên” đáp lời.
Lý ta sẵn nguyệt giữa trời,
Hứng thành nhất đối đọc chơi ướm tình.
Gót sen trở lại trong bình,
Lại câu “trần cách tam sinh” trả người.
Tiệc vui chè chén vừa rồi,
Ba người sắp sửa về nơi trong thành.
Hồ Tây nào cảnh nào tình,
Đào Nguyên phảng phất bên mình đâu đây.
Nghỉ chân mới được vài ngày,
Chốn vui lại nhớ, dấu giày lại đi.
Hòe Nhai phong cảnh còn y,
Tửu lâu hoa tọa thấy gì nữa đâu.
Tận nơi nhìn khắp trước sau,
Gốc hòe có chữ triện sâu mấy hàng.
Bốn câu thơ đó xem tường,
Nghĩ khi hôm nọ rõ ràng gặp Tiên.
Phân minh này sự chẳng huyền,
Phùng ta nhớ thuở ngoài biên thấy người.
Lạ cho tiên vẫn trong đời,
Một khi hiển hiện một nơi lâu đài.
Vân du tự ý vãng lai,
Đề huề Quảng, Quế lại hai người hầu.
Quảng Cung kìa thực em dâu,
Quế Cung nay thực gái đầu nhà em.
Bát Tràng riêng cõi thanh am,
Lửa hương nay vẫn tiếng thơm lâu dài.
Hồ Tây từ trở tiên hài,
Hạc trong Bến Thủy, mây ngoài Sóc Hương.
Hà Thanh rồi lại Hoành Quan,
Thanh khoa lãnh thủy, đường ngang bộ hành.
Biết bao di tượng túc thanh,
Giang sơn vẫn đó, tinh anh vẫn còn.
Đoạn 12: Hiển linh ở Phố Cát
Thạch Thành, Phố Cát trên non,
Ba tầng gác tía lầu son xưa rày.
Âm dương có giếng lạ thay,
Đêm đêm thời cạn, ngày ngày không vơi.
Dưới khe cá khác mọi nơi,
Ăn chay ăn mặn, một loài chia hai.
Đầu đen, bụng trắng mình dài,
Từng lần thay đổi, đua chơi quen người.
Hào Lương chốn ấy là vui,
Chớ đem dao thớt thả mồi tàn tham.
Đoạn 13: Dấu tích ở Sòng Sơn
Tống Sơn kia xã Cổ Đam,
Một nơi tú thủy, danh nham đâu tày.
Chín mươi chín suối chầu ngay,
Quanh quanh Tam Điệp núi bày bên sau.
Sòng Sơn cảnh ấy rất màu,
Hiển linh một mộng vương lâu mấy tòa.
Thần Tông thuở hậu Lê ta,
Trên đường kẻ lại người qua chưa tường.
Mắt trần khôn xiết nhỡ nhàng,
Họa dâm, phúc thiện đôi đàng uy linh.
Bách quan tấu đến triều đình,
Trong triều tưởng những yêu tinh tầm thường.
Vừa khi Lê đế, Trịnh vương,
Loan xa thân đến quý hương quê nhà.
Đền Sòng giữa lối trẩy qua,
Hoàng thân, cung nữ một tòa đi theo.
Dưới thời quyền thế lạ gì,
Lọng giương ngựa cưỡi một khi nhỡ nhàng.
Thừa dư giăng lại bên đường,
Tòng quan mấy kẻ nằm ngang bên bờ.
Quái kỳ trong chốn tờ mờ,
Trở về lòng chúa, lòng vua cả ngờ.
Chiếu cầu phương sĩ bấy giờ,
Kẻ tầm thầy đến, người đưa bùa vào.
Pháp sư lại ngoại quốc vào,
Tiền triều linh tích lại bao đạo tràng.
Lại truyền đình mở các làng,
Bách thần danh vị kiệu tàn rước đi.
Sòng Sơn tới đó một khi,
Thầy thời hóa quỷ, bùa thì ra tro.
Đoạn 14: Tam Cung phụng chỉ
Lê hoàng nghe nói lòng lo,
Thượng sư nhớ đến sắc cho sứ mời.
Từ Minh, Thanh Hóa đến nơi,
Sư nay đã tịch, con Người còn ba.
Hai quan tả hữu đường xa,
Tiền quan em ruột ở nhà từ thay.
Đôi lần mao tiết giục đây,
Ba người đính ước theo ngay vào triều.
Vâng lời vì quốc trừ yêu,
Phong cho thống lĩnh dụ theo ôn tồn.
Gia truyền đã sẵn sơn môn,
Xưa kia lại mệnh Thế Tôn độ người.
Bây giờ phụng chỉ khâm sai,
Quân trong mấy vạn, quân ngoài mấy trăm.
Chỉ đường Tam Điệp sơn lâm,
Bóng cờ tiếng súng ầm ầm chỉn ghê.
Xa xa Tiên Chúa đã nghe,
Rằng: “Ta đế tử há e người trần?”
Tiền quan giả dạng thường nhân,
Một mình một ngựa ba lần Sòng Sơn.
Chúa ta thấy kẻ phi thường,
Xuống thềm mời đón hỏi tường căn duyên.
Tiền quan rằng: “Mới được tin,
Xưa kia công chúa vốn trên Thiên đình.
Việt Nam từ thuở hiển linh,
Ra tay quỷ khóc, chuyển mình mây tung.
Thế gian thần nữ vô song,
Uy danh Tam Phủ Công Đồng đã nghe.
Một điều thái quá chỉn e,
Thương thay những kẻ đi về thác oan.
Lôi đình nổi giận Lê hoàng,
Tìm người thuật sĩ, tính bàn trừ đi.
Hỏi người diệu pháp chi chi,
Hoặc là thiếu thốn xin vì đỡ thay.”
Thực lòng chúa đã tin ngay,
Rằng: “Ta phụng chỉ từ ngày trần gian,
Sơ tâm đâu có gây oan,
Nhưng vì hạ giới ngu ngoan nhiều đường.
Trên thời vua chúa chưa tường,
Một phen phải để rõ ràng uy danh.
Bây giờ cưỡi hổ thế thành,
Người nay giúp đó, thiếp đành ơn đây.”
Nói rồi đứng dậy ra tay,
Ba nghìn bí quyết thử bày người hay.
Tiền quan khen phép diệu thay,
Khăn hồng thu lấy trong tay tạ về.
Biết tình Tiên Chúa mới ghê,
Ma vương bộ hạ bốn bề đuổi theo.
Ba ngày gió táp sấm reo,
Lưng trời sóng dậy, ngang đèo cây nghiêng.
Nào hay phép Nội cũng thiêng,
Ma vương tiền bộ chạy miền rừng sâu.
Quan quân kéo đến trước sau,
Sòng Sơn lửa đốt, hoa lâu tro tàn.
Dẫu cho biến hóa khôn thường,
Thần long thất thế khôn đường bay ngang.
Đoạn 15: Đức Phật Thế Tôn ra tay cứu gấp
Thế Tôn Phật đã tỏ tường,
Linh Sơn xa giá vội vàng xuống ngay.
Tam quan trông bóng năm mây,
Khấu đầu bái yết, chắp tay nghe lời.
Thế Tôn rằng: “Chúa con trời,
Đã cam lỗi trước lại lời hối nay.
Xin người lượng rộng bể đầy,
Cho theo ta chốn Thiền trai thụ trì.”
Tam quan nghe hết lời từ,
Sợ lòng xin Chúa phải y mệnh truyền.
Chứng minh có Phật ở trên,
Cà sa áo mặc, mũ sen đội đầu.
Đoạn 16: Quy Phật ở Tuyết Sơn
Chúa ta cảm tạ ơn sâu,
Kíp theo gót Phật về tu cửa Thiền.
Từ khi quy Phật tâm chuyên,
Tụng kinh thính pháp, thánh hiền chứng tri.
Tuyết Sơn một dải thanh kỳ,
Bây giờ còn dấu tu trì thuở xưa.
Tượng đồng bên Phật sớm trưa,
Lửa binh tầng lớp gió mưa không rời.
Nước dương mát mẻ thảnh thơi,
Sòng Sơn cảnh cũ lại nơi đi về.
Riêng bầu nước chở non che,
Hiện làm mỹ nữ bạn bè vui chơi.
Đức ông thầy cống một người,
Thiếu niên khoa cử trên đời tài danh.
Trộm nghe Nội đạo cũng linh,
Theo đòi làm lễ môn sinh trong trường.
Tiền quan rồi lại Hậu quan,
Hai đời học được phép toàn thần thông.
Vừa khi gặp Chúa đền Sòng,
Lấy câu phong nhã ra lòng trêu ngươi.
Chúa ta thành ý đón mời,
Rượu trong một đấu, thơ thời trăm thiên.
Thấy tài thượng tọa rước lên,
Dở say thầy cống duỗi liền tay chiêu.
Rằng: “Như quý chủ tài cao,
Thử nay ra phép xin trèo ngồi đây.”
Nghe lời tức khí ngồi ngay,
Sẵn đâu chùy sắt trong tay hiện hình.
Chúa ta đương lúc vô tình,
Nắm tay thần quyết, băng mình bên sông.
Gió mây một trận đùng đùng,
Theo thầy pháp cống đến trong đạo tràng.
Hậu quan trông thấy vội vàng,
Cầm ngay đứng lại hỏi tường căn do.
Đoạn 17: Quy pháp ở Từ Minh
Chúa rằng đạo thánh cũng to,
Nay đà tới cửa rộng cho theo cùng.
Hậu quan sửa một tịnh phòng,
Đã ngoài trần tích lại trong thánh đường.
Trước đàn mấy nén tâm hương,
Giảng câu đạo đức, bàn đường khoa kinh.
Nửa năm phép Nội cũng tinh,
Đem lòng Chúa mới giãi trình Hậu Quan.
Rằng: “Tôi hổ phận hồng nhan,
Gió xuân đã mướt, lá vàng thêm tươi.
Lò hồng nừng nực mấy hồi,
Ơn sâu này biết đến đời nào quên.
Sòng Sơn chốn cũ một bên,
Xin người ra sức ơn trên chu toàn.”
Hậu quan nghe nói dậy liền:
“Chúa nay đế nữ khắp miền kính tôn.
Đã vâng Phật, Thánh chân ngôn,
Lại nhờ quân chủ gia ơn mấy lần.
Giữ điều “Hộ quốc tí dân”,
Để cùng Nội miếu nghìn xuân lâu dài.”
Tạ từ Chúa mới vâng lời,
Nửa đêm tiên giá về nơi núi Sòng.
Phân minh báo ứng khắp trong,
Người chiêm bao thấy, người đồng thượng lên.
Rằng: “Ta Tiên nữ ở trên,
Đã vâng ngọc chỉ xuống miền nhân gian.
Muốn cho nhân phụ, vật khang,
Chốn này phải dựng miếu đường như xưa.”
Triều đình tấu lại một tờ,
Hậu quan nhân việc bấy giờ gửi cho.
Lầu son cửa ngọc phấn tô,
Mã Hoàng Công Chúa sắc vua rỡ ràng.
U minh ẩn hiện khôn lường,
Oai linh thần nữ Nam phương ai bì.
Việc thầy pháp cống mới kỳ,
Sòng Sơn từ lúc thiết chùy cợt chơi.
Xuân vi văn giá hội khôi,
Quyển thi hai thứ mực bôi tăng dòng.
Có khi chầu chực Thiên quan,
Sự tình pháp cống điệp hồng tấu lên.
Ngọc Hoàng dặn bảo ở trên,
Đầu đuôi Chúa mới một bên giãi bày:
“Sòng Sơn giáp mặt từ ngày,
Ái tài con vẫn xưa nay lòng thành.
Lại nhờ Nội Đạo uy danh,
Đưa câu bất nhã, dứt tình nan khan.
Nhẽ trời theo phải mà làm,
Oán đành báo oán, lời cam trái lời.”
Hậu quan nghe chuyện hai người,
Gọi thày pháp cống đến nơi răn lời:
“Cõi Tiên cảnh đã tới rồi,
Phù danh còn việc trên đời tranh chi?”
Anh hùng so sánh nữ nhi,
Tỉnh hồn pháp cống từ khi đành lòng.
Rành rành những việc trên không,
Tam quan thực lục ở trong chép tường.
Đoạn 18: Lòng yêu nước của Tiên Chúa
Chúa từ quy pháp rộng đường,
Riêng lòng yêu nước thời thường đinh ninh.
Quân vua khi dẹp Chiêm thành,
Một niềm hiệu thuận, hiển linh lại càng.
Sắc phong “Chế Thắng” đường hoàng,
Lại gia “Hòa Diệu Đại Vương” chữ đề.
Huyền Tông Cảnh Trị đời Lê,
Ngõa Từ có sắc dụ về Sòng Sơn.
Chính Hòa đến hiệu Hy Hoàng,
Sái phu mười suất chỉ ban quê nhà.
Liệt triều trải mấy đế vương,
Ân phong Thượng đẳng, thần thường trứ linh.
Đoạn 19: Bản triều gia ân
Triều ta Nam Bắc thanh bình,
Thần minh giúp thế, yêu tinh dẹp quyền.
Gia Long vừa đến tứ niên,
Tiên Hương có dụ đổi tên quê nhà.
Đường đường liệt miếu ân gia,
Làng Vân, Phố Cát lại là Sòng Sơn.
Trải bao Tây Bắc thương tang,
Nam Sơn như cũ, Tiên đàn như xưa.
Đoạn 20: Niệm Phật ở Hương Sơn
Ai đem mắt tục còn ngờ,
Hương Sơn kia dấu bây giờ còn ghi.
Một vùng sơn thủy thanh kỳ,
Trong hang Phật đá một vì thiên nhiên.
Hồng y rõ vẻ người Tiên,
Chân kinh đứng đọc, gót sen chưa rời.
Trụ trì vừa tới đến nơi,
Rằng: “Quỳnh Hoa đó, là người Tiên Cung.”
Tưởng câu sắc sắc, không không,
Quy y niệm thiết trong lòng bấy nay.
Nói rồi gió quạt hương bay,
Hoa đèn bóng rõ cung mây người về.
Tháng Ba nay vẫn giữ lề,
Thỉnh kinh niệm Phật hội kỳ chùa Gôi.
Bây giờ chùa ở mọi nơi,
Trời Nam có Phật, tượng Người có bên.
Đoạn 21: Niệm pháp ở Từ Minh
Lại tuần hôm Tám tháng Giêng,
Thượng sư ngày hội trong đền có Tiên.
Trông ra một đám mây đen,
Ấy là Tiên Chúa báo tin thăm thầy.
Pháp tràng Nội Đạo xưa rày,
Tả bên một vị trong này để ghi.
Đại thừa cho hiệu một khi,
Từ Minh niệm Phật thượng sư tặng người.
Bây giờ phù lục bên ngoài,
Cũng lòng thành kính dám ai thi quyền.
Đoạn 22: Mở chợ Tiên
Năm năm, mồng Tám tháng Giêng,
Tiên Hương chợ mở một phiên suốt ngày.
Biết bao quán đặt hàng bày,
Đường ngang ngõ tắt của đầy mười phương.
Mua mua, bán bán, chen chen,
Đi đi, lại lại, vàn vàn, thiên thiên.
Chợ Trời vui vẻ làng Tiên,
Thuế không ngoài ngạch, ơn riêng quê nhà.
Đoạn 23: Đại hội Tiên Hương
Tháng Ba ngày tới mồng Ba,
Tiên Hương hội mở lại là vẻ thay.
Trống chuông, đàn sáo đêm ngày,
Nhạc trời gần đó tai người xa đâu.
Mấy làng kéo chữ đua nhau,
Đã lời “Vạn tuế” lại câu “Thái bình”.
Đời Lê tự thuở hiển linh,
Lệ hằng giữ lấy, chớ khinh là thường.
Nghĩa trong vi hiển ai tường,
Bắc Kỳ đã khắp mọi làng khói hương.
Đoạn 24: Linh thiêng nổi tiếng ở Nam kỳ
Thuận kinh khi đặt âu vàng,
Nam Trung cõi ấy lại càng anh linh.
Núi kia Ngọc Trản thiên thanh,
Có chăng rơi chén Thiên đình xuống đây.
Quanh quanh Hương Thủy nước đầy,
Xa xa Linh Mụ chùa ngay trước đền.
Năm đầu Đồng Khánh sửa thêm,
Nhớ ơn báo đức vua trên lòng thành.
Sẵn nơi sơn thủy cao xanh,
Hai tầng đài gác chênh vênh một thời.
Tầng trên Thánh Mẫu dung nghi,
Đôi bên tả hữu hai vì Tiên cung.
Dưới thời hương án Công Đồng,
Đôi bên Phật tọa mấy trùng nghiêm trang.
Trong thời bộ viện trăm quan,
Ngoài thời dân dã, bốn phương một lòng.
Có khi kén bắt thanh đồng,
Đạo ngoài có khác, người trong không nề.
Có khi lên miệng cho nghe,
Rằng: “Ta quy Phật chưa hề sát sinh.
Hương hoa thượng điện trai thành,
Chầu văn lại với tụng kinh ấy lề.
Chín mươi cấp đó khắt khe,
Hương Giang mấy ngả theo về chầu lên.
Lưỡng kỳ Nam Bắc tiếng truyền,
Khói mây đi lại dấu Tiên cõi trời.
Đoạn 25: Tổng kết trước sau
Cho hay Tiên cũng là người,
Người là Tiên ở trên đời lạ chi.
Kể từ Thượng giới trích đi,
Nghiêng chân bước xuống những vì sảy tay.
Hai mươi năm bấy nhiêu ngày,
Ân ân, ái ái nặng thay hiếu tình.
Đã khi phục mệnh Thiên đình,
Bến mê thương lũ u minh không đành.
Mấy khi hiển thị uy linh,
Cũng lòng tế độ chúng sinh lụy gì.
Rộng đường lại biết tu trì,
Phật kia Pháp nọ quy y đều là.
Đâu đâu, đâu cũng làng ta,
Ai đem Thần giáo dạy nhà nước kia.
Văn minh bốn biển đều nghe,
Mở lòng yêu nước bởi về thần trên,
Bụt nhà chớ bảo không thiêng,
Này đây Thánh Mẫu ở miền bể Nam.
Còn trời, còn nước, còn non,
Còn lăng, còn miếu hãy còn làng Tiên.
Nghìn thu quốc điển còn bền,
Truyền kỳ còn lục, phả biên còn tường.
Lại còn trong sách Nội Tràng,
Đôi bên dẫu khác, một đường như in.
Đạo Tiên, đạo Bản, đạo Huyền,
Mà trong thịnh đức nên tin quỷ thần.
Lạc Hồng một cõi hải tần,
Trong ngoài biết phép, xa gần tỏ tên.
Mong sao trắc giáng ở trên,
Tí dân hộ quốc lòng xin ghi lòng.