Nhị Vị Thánh Chầu: Chầu Quỳnh Chầu Quế
Chầu Quỳnh hay còn gọi là Quỳnh Hoa Công Chúa, và Chầu Quế còn được gọi là Quế Hoa Công Chúa là hai vị thánh hầu cận kề bên Đức Thánh Mẫu. Nhị Vị Thánh Chầu: Chầu Quỳnh Chầu Quế là hai người thân cận nhất bên cạnh Thánh Mẫu.
Thần tích Nhị Vị Quỳnh Quế Công Chúa
Thần tích Nhị Vị Quỳnh Quế tại Phủ Dầy
Trong di tích lịch sử văn hóa Phủ Dầy, hai chầu cũng trong dòng tộc Trần Lê (có mộ tại Phủ Dầy) được thờ bên cạnh Thánh Mẫu trong cung cấm của Phủ Chính Tiên Hương. Theo huyền tích tại Phủ Dầy thì hai Chầu anh linh, hiển hách, thường biến hiện, rong chơi khi sơn lâm rừng xanh núi đỏ, lúc vào Nam ra Bắc cùng Đức Quốc Mẫu, thường giáng phúc trừ tai, thẳng tay trừng trị kẻ gian ác, ban tài tiếp lộc cho người hiền lương. Chính vì vậy nơi đâu có đền, phủ Mẫu thì nơi đó có Nhị Vị Thánh Chầu hầu cận hai bên Mẫu. Nhị Vị Thánh Chầu được Mẫu ban giao giữ sổ sách Tam Tòa, coi sóc chốn nội cung Phủ Dầy.
Ban thờ Nhị Vị Thánh Chầu trong cung cấm Phủ Chính Tiên Hương
Dưới đây là một đoạn trong bài văn cổ nói về sự tích của Đức Thánh Mẫu Phủ Dầy sau khi Mẫu về lại vân du dưới trần gian, Đức Vua Cha phán đòi hai vị Thánh Bà Chầu Quỳnh , Chầu Quế xuống hầu cận Mẫu nắm quyền phân minh thay Mẫu.
“Khắp đâu đâu nức danh từ đấy
Ai kẻ còn dám lấy làm khinh
Dù lòng hiển Thánh anh linh
Đến đâu thời đấy hãi kinh giờn giờn.
Cũng có cơn hiền lành vui vẻ
Phấn điểm trang chải rẽ thanh tao
Dù khi thất ý nơi nao
Dường con sư tử bào hao dậy giàng.
Thêm đôi bà Chầu Quỳnh Chầu Quế
Ấy là trong nghĩa đệ thân huân
Hôm mai chầu chực áo khăn
Uy nhờ Tiên Thánh có phân nồng nàn.
Rày Mẫu đã về ngàn nhân đức
Quyền đôi bà xem xét trang nghiêm
Có khi nương gió thác rèm
Ai nương bóng Thánh càng thêm não nùng.
Cũng có khi quyền chung tiệm nhớ
Cũng có khi qua nhớ lại thôi
Thương khi duyên chắp vận xui
Ban Tài, ban Lộc, ban Ngôi, ban Quyền.
Kẻ lỗi nguyên càng thêm bầm nhỡ
Có lòng tin khấn khứa truyền tha
Trọn bề bách nguyệt hồn hoa
Đã nên một cảnh yên hà có danh.
Xưa Thánh chốn yên lành cùng ngự
Cũng từng quen Tiên Nữ năm, ba
Rẩy chân xuống sợ Sa Bà
Khuôn phù Ngọc ân quản ba giới Thần
Gia uy linh cứu nhân độ thế
Trẻ cùng già ai nấy đội ơn
Ban Tài , ban Phúc, ban Nhân
Phù hộ đệ tử thiên xuân thọ trường!
Thần tích Nhị Vị Quỳnh Quế trong lần Thánh Mẫu Liễu Hạnh giáng sinh thứ hai
Lần thứ hai Thánh Mẫu Liễu Hạnh giáng thế, bà giáng vào nhà họ Lê ngụ ở An Thái, huyện Thiên Bản, phủ Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định. Khi vừa tròn 18 tuổi, Tiên Chúa được phụ mẫu cho kết duyên cùng Trần Đào Lang, sinh được một người con trai tên là Nhân, một con gái tên là Hòa. Giữa lúc cả gia đình đang đầm ấm vui vẻ thì bỗng nhiên Bà mất ngày 3 tháng 3 năm Đinh Sửu, thời Lê Gia Thái thứ 5 (1577). Năm ấy, Bà mới 21 tuổi, tuyệt nhiên không bệnh tật gì mà người thì vẫn hồng hào như khi sống, gia đình để ba ngày mới tổ chức mai táng. Khi di quan tài ra cánh đồng cách nhà mấy trăm mét bỗng nhiên trời nổi vân vũ và có tiếng nói của bà Giáng Tiên truyền ra khuyên mọi người tránh ra. Khi mọi người tránh ra thì sét đánh xuống, áo quan vỡ ra, thấy bà nằm đó và lúc này sét đánh càng mạnh đủ 49 luồng thì ngưng, sau đó mọi người không thấy áo quan đâu, và cũng không thấy thân xác của Mẫu, có mấy người nhìn thấy bà bay về trời. Chính vì việc bay về trời này nên Thánh Mẫu mới là một trong Nam Thiên tứ bất tử, bất tử ở đây có nghĩa là không chết và thân xác bay về trời như các đức Thánh bất tử khác trong truyền thuyết: Thánh Gióng bay về trời, Thánh Chử Đồng Tử bay về trời, Thánh Tản về trời đều không chết và để lại thân xác.
Cái đáng trân quý ở đây trong sự tích của Đức Thánh Mẫu là vị Thánh không phải là truyền thuyết mà là người thật bay về trời có nhân chứng và chứng tích. Một số vị tu đạo theo đạo Giáo đương thời coi đó là ngài độ kiếp thành Tiên. Sự hiển linh thành Thánh của ngài ở An Thái là một sự việc được cả thiên hạ lúc bấy giờ biết tiếng và dân chúng kính ngưỡng đến chiêm bái nơi ngài về trời và tập trung xây đền phủ để thờ. Sự hiển linh của Thánh Mẫu lại tiếp nối bởi khi đó ai đến chiêm bái Mẫu, lấy nước ở dòng suối Cánh Gà mang vào phủ thờ Mẫu kêu cầu lễ uống đều khỏi bệnh (tục lấy nước suối Cánh Gà này mãi đến thời kỳ bao cấp bị chính quyền ngăn cấm mới bỏ). Và rồi những người bị ma quỷ ốp nhập bệnh, âm bệnh về tinh thần, hễ đến lễ Mẫu là khỏi bệnh. Nhân dân thì nô nức cầu xin đều linh ứng. Rồi có người điên dại căn cơ sâu nặng, người nhà đưa đến cầu xin phép Mẫu đều được khỏi. Sau đó họ được ốp bóng sang tai và theo vào các dòng đồng ở địa phương mình, ra trình đồng và hầu hạ nhà Thánh theo lối hầu đồng ngàn xưa của dân tộc.
Vốn xưa kia, trước khi Thánh Mẫu giáng sinh, các cụ người Việt Nam ta đã thờ cúng và hầu hạ lên đồng hầu các Thánh Thượng, Thánh Thoải và các vị Thần linh Bách Việt cũng như cửa Thượng Từ Trần Triều Kiếp Bạc, trong các văn bản cổ lưu lại rất nhiều. Bản thân làng An Thái thời đó cũng có dòng đồng của Chiêu Dung công chúa, một nữ tướng thời Hai Bà Trưng.
CÔNG CHÚA QUỲNH HOA – Người chị dâu của Mẫu. Sau khi Thánh Mẫu Liễu Hạnh phi thăng chứng thân bất tử, người chị dâu của Mẫu ở tại trần thế được mộng báo đã y theo lời Thánh Mẫu tổ chức thờ cúng và tập hợp các dòng đồng đã có trước đó như dòng đồng Thiên Tiên, dòng đồng thờ Thánh Thoải, dòng đồng thờ Thánh Thượng – Thanh Sơn (Sơn Lâm Sơn Trang),… hình thành nên thứ tự hầu đồng từ nhiều dòng đồng, nhiều giá đồng và định ra lối hầu cùng phép tắc hầu đồng và bắc ghế tu cơ sở cho con đồng nói chung như ngày nay chúng ta vẫn hầu. Đồng thời bà còn truyền bá Đạo Mẫu và phép hầu hạ tu tập này rộng rãi. Sau này bà được phong là Đệ Nhị Địa Tiên Thánh Mẫu (Đệ Nhị Vân Hương Thánh Mẫu Quỳnh Cung Duy Tiên Công Chúa), thờ trong cung cấm Phủ Dầy -Tiên Hương – Vụ Bản – Nam Định cùng với Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Hà Nam (Hoàng Thị Quế Anh).
CÔNG CHÚA QUẾ HOA – Người cháu của Mẫu bên họ Trần Lê. Ngài cũng là bậc Thượng Đẳng Thần, một trong ba vị Vân Hương Thánh Mẫu. Hiệu của Ngài là Vân Hương Đệ Tam Thiên Tiên Thánh Mẫu Quảng Cung HOÀNG THỊ QUẾ ANH Công Chúa Linh Quang Huyền Diệu Tĩnh Nhu Đoan Khiết Trai Thục Dực Bảo Trung Hưng Trang Huy Thánh Cung Hạ Từ Tôn. Bà là cháu của Mẫu, năm lên 9 tuổi bà theo vào hầu Mẫu. Đến khi bắc ghế đến giá bà chúa Thánh Thoải bà tự dưng nói “ta biết ta là ai rồi, ta phải về với các chị của ta” và tự đi ra khỏi sập công đồng, đi xuống giếng trước cửa đền. Mọi người đi theo thấy bà ngập đến đầu thì kéo lên nhưng bà đã thác ngay lúc đó. Sau đó mọi người tổ chức đi chôn cất. Và Bà được coi là Thánh Tổ cô họ Trần Lê.
Sự tích tại văn bia ghi lại tại phủ Giáp Ba về Hoàng Thị Quế Hoa thì ghi rõ: Bà tên là Thúc, người họ Hoàng ở xã Tây Mỗ huyện Nga Sơn (sau đổi thành Tống Sơn và nay là làng Tây Mỗ, xã Hà Thái, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa), sinh vào cuối năm Đinh Hợi niên hiệu Cảnh Hưng 28 tính sang dương lịch là ngày 9 tháng 2 năm 1768. Từ lúc sinh ra đã có nhiều kỳ lạ, đặc biệt thời nhỏ có khả năng dự báo được mưa nắng và một số điềm lành dữ rất tốt. Người ở xung quanh biết bà không phải là người bình thường. Năm 16 tuổi (năm Nhâm Dần, tức năm 1782), bà được gả cho ông Mai Nho Bàng ở xã Thạch giản tổng Thạch giản cùng huyện. Bà về làm dâu một thời gian thì nói với chồng rằng mình biết kiếp trước là người huyện Thiên Bản và yêu cầu ông chuyển về đó sinh sống. Ông họ Mai mới cùng vợ tìm về Thiên Bản và ông bà mua đất và xây nhà ở xã Bảo Ngũ, huyện Thiên Bản, trấn Sơn Nam (Giáp Ba, tỉnh Nam Định ngày nay), ông bà cùng tới đó sinh sống. Từ xã Bảo Ngũ, bà thường tới nơi thờ Đệ Nhất Thánh Mẫu ở Tiên Hương. Cùng chồng mình, bà đi khắp nơi xây sửa đền phủ, truyền đạo, dậy đồng mở phủ giúp đỡ dân nghèo,… Bà cũng kể cho chồng kiếp trước mình là cháu gái của Thánh Mẫu và mất năm 9 tuổi, là vị thứ ba được thờ trong Phủ Dầy. Đến năm 33 tuổi, tức năm Kỷ Mùi (1799), vào ngày ba tháng ba âm lịch, sau khi khăn áo chỉnh tề, bà mật báo cho thị nữ biết mình là Hoàng Thị Quế Hoa, là tiên nữ đệ tam ở thiên cung (nguyên văn là “Thiên cung đệ tam tiên muội Hoàng Thị Quế Hoa”), đến ngày chín tháng ba thì sẽ về trời. Đúng như lời, tới ngày chín tháng ba (nếu tính sang dương lịch thì là ngày 13 tháng 4 năm 1799), bà chỉnh tề khăn áo rồi vào trong quan tài mà từ từ nằm xuống, bảo con đồng theo hầu đóng áo quan lại. Cứ thế mà hóa. Đạo sĩ các nơi nghe chuyện liền đổ tới vái lễ. Ngày đưa đám, các con đồng cả nước về đưa tang, thiên tượng cũng khác lạ: gió cuốn sạch bụi, mưa tuôn quét đường, mây hồng che huyệt mộ, chim én bay lượn, các loại chim ca hót đầy trời. Nhân dân biết đó là dấu hiệu của Tiên Thánh về trời, quan sở tại thì cho nha lại soạn thành sự tích giao về cho nguyên quán, rồi lập đền thờ phụng, linh ứng rõ ràng. Dân chúng trong làng Tây Mỗ từ đó thờ bà với tên Đệ Tam tiên nữ có tên hiệu là Hoàng Thị Quế Hoa. Người ta kêu cầu gì với tiên nữ, đều được ứng nguyện.
Còn ở Thiên Bản và các nơi khác đều gọi là Vân Hương Đệ Tam Quế Anh Công Chúa. Trong phủ Giáp Ba trước có nhiều bia của tri phủ và tổng đốc ghi lại sự tích này. Bề mặt văn bia và các tích lục của họ Trần ở Thiên Bản thì đều xác nhận là Vân Hương Đệ Tam Quế Anh Công Chúa.
Hai vị Thánh Mẫu Đệ Nhị và Đệ Tam Thị Tòng Mẫu đều có sắc phong Thượng Đẳng Tối Linh Thần còn dân gian thì tôn thờ là Nhị Vị Thánh Chầu Quỳnh Quế Thị Tòng của Mẫu.
Trong quá trình truyền giáo, mở mang đền phủ thờ Thánh khắp cả nước, Đệ Tam Vân Hương Thánh Mẫu Hoàng Thị Quế Anh là người có công truyền Đạo Thánh Mẫu về phương Nam theo chân Nguyễn tộc. Nhưng do điều kiện chính trị thời bấy giờ và cũng là do dân tộc Chiêm thành phương Nam theo đạo bà-la-môn nên những người đồng nhân sơn nam đệ tử của bà theo lệnh bà đi mở đạo đã dung hòa giao thoa kết hợp với yếu tố bản địa tôn phụng đức Thiên Y A Na hay còn gọi tên khác là Thánh Mẫu Chúa Ngọc. Sau này Thánh Mẫu Thiên Y A Na dung hòa vào đạo Thánh Mẫu được các triều đình sắc phong như những vị Thánh Đạo Mẫu và ban danh là Chúa Xứ Thánh Mẫu, là có yếu tố đạo bà-la-môn của bản địa phương Nam.
Bởi tình hình thời bấy giờ ảnh hưởng tư tưởng trọng nam khinh nữ của Nho giáo và sự cản trở của triều đình nên Đạo Mẫu cũng bị cấm truyền bá nhiều. Nhưng nhân dân thì vẫn tín ngưỡng Mẫu và vẫn nương nhờ vào sự gia hộ anh linh quyền phép của Mẫu, nên đạo Mẫu ngày càng phát triển mạnh cho đến lúc hủ nho quan lại triều đình phong kiến không cản nổi. Sau khi Mẫu Vũ Hóa Thăng Thiên, bao nhiêu năm do không ngăn cấm được việc dân gian thờ Mẫu là Thần Chủ và theo làm con nhang đệ tử nhà Mẫu, thì các bậc hủ nho quan lại cùng triều đình đều chấp thuận ủng hộ và bỏ tiền xây dựng Phủ Mẫu. Đến đời Chính Hòa nhà Lê cấp tiền xây dựng và gia phong Mẫu Nghi Thiên Hạ vào ngày 24/6 nhuận năm 1683, thì được gọi là Phủ Tiên Hương hay tên gọi dân dã là Phủ Dầy hay Phủ Chính.
Sắc phong năm 1683 vẫn được lưu tại họ Trần Lê tại Phủ Nội Tiên Đình nơi đó xưa là nội từ do người anh cả của Mẫu thờ phụng các vị thân sinh ra Mẫu. Đến năm 1912, cụ Đoàn Triển – Tổng đốc Nam Định cho hưng công xây dựng lại, vẫn để kết cấu cột vuông trong phủ như cũ để thể hiện mẫu là Thần Chủ của thiên địa chủ quản địa tiên. Ngài vừa là Thánh, vừa là Thần, vừa là Tiên và sau này còn được phong Mã Vàng Bồ Tát ngài còn là Phật hiện thân.
Thần tích Nhị Vị Quỳnh Quế tại Đền Ỷ La
Theo một sự tích thì Quỳnh Hoa Công Chúa, Quế Hoa Công Chúa là tướng của Hai Bà Trưng, sinh ra ở đất Hà Giang, theo Hai Bà khởi nghĩa, khi bị cùng đường đã chạy về quê nhà và tự vẫn xuống sông Lô. Sau hai bà hiển linh và hầu Mẫu tam tòa. Được Ngọc Hoàng sắc phong Quỳnh Hoa Công Chúa, Quế Hoa Công Chúa.
Theo sách Đại Nam nhất thống chí, thần tích Đền Ỷ La và truyền thuyết dân gian đều kể lại thì: Xưa có hai nàng công chúa con vua Hùng là Phương Dung (Quỳnh Hoa Công Chúa – Bia Văn tại đền) và Ngọc Lân (Mai Hoa Công Chúa), một hôm theo xa giá đến bên bờ sông Lô (thuộc thôn Hiệp Thuận) đỗ thuyền. Nửa đêm trời mưa to, gió lớn, hai nàng đều hóa, nhân dân trong vùng lấy làm linh dị bèn lập đền thờ. Đến triều vua Cảnh Hưng, ngày 29 tháng 06 năm Mậu Ngọ (1738) đền được xây dựng qui mô hơn. Tiếp đến, ngày 28 tháng 10 năm Đinh Hợi (1767), nhân dân lại xây thêm một ngôi đền nữa về bờ tả sông Lô, phía thượng nguồn, thuộc chân núi Dùm đặt tên là Đền Thượng. Đền Hiệp Thuận ở hạ lưu được gọi là Đền Hạ, thờ công chúa Phương Dung (người chị), Đền Thượng thờ công chúa Ngọc Lân (người em). Truyền thuyết cho hay, hai ngôi đền có nhiều linh ứng, nên từ xa xưa hai nàng được tôn làm Thánh Mẫu.
Khi nhà Trần đi qua sông Lô thấy miếu ven đường (tức đền Tam Cờ ngày nay và đền Cấm, núi Dùm) vào bái yết cầu đảo, được hai bà phù giúp nêm sau khi thắng trận sắc phong Nhị Vị Tiên Nương Thủy Cung Công Chúa.
Hai bà hầu cận Mẫu Cửu Trùng Thiên và Mẫu Tam Tòa. Nhân dân ta tôn xưng là Quỳnh Nương – Quế Nương Công Chúa. Hai bà là sự hóa thân của tam giới Thiên, Thượng, Thoải nên ở môi trường nào thì phong Ngài theo màu sắc của môi trường đó.
Hai bà là con trời giáng sinh xuống hạ giới thượng ngàn, thác sinh xuống thoải cung chứ không phải như một số nhà nghiên cứu cho rằng đền Dùm thờ Mẫu Thoải, đó là đi ngược với quan niệm tiền cổ của dân gian là đi lễ Mẫu Thượng ở Tuyên Quang.
Triều vua nhà Nguyễn, nghe tin có một đảng loạn sắp tràn vào tỉnh lỵ, dân chúng đã vác tượng Mẫu chạy vào thôn Gốc Đa xã Ỷ La. Họ vừa kịp giấu pho tượng vào rừng cây thì quân giặc tới, nhưng chúng không phát hiện ra. Sáng hôm sau, thay vào chỗ bức tượng là một đống mối đùn lớn, dân làng cho là điềm báo ứng. Giặc tan, họ cùng nhau xây một ngôi đền mới thờ Thánh Mẫu ngay trên mảnh đất đó. Như vậy, sự hình thành Đền Mẫu Ỷ La và Đền Thượng đều bắt nguồn từ Đền Hiệp Thuận. Trong quan niệm dân gian, Đền Mẫu Ỷ La là nơi “lánh nạn” của Mẫu, là nơi có địa thế linh thiêng chở che Thánh Mẫu, là nơi có khả năng bảo toàn cái Thiện, cho nên lễ hội Đền Thượng và Đền Hạ không tách rời Đền Mẫu Ỷ La. Hai vị Thánh Mẫu đều được thờ phụng ở 3 ngôi đền. Nhưng Đền Mẫu Ỷ La được chọn là nơi khởi kiệu, Đền Hạ là nơi hợp tế đều có những nguyên do lịch sử và tín ngưỡng dân gian.
Trong văn bia trùng tu Đền Hiệp Thuận năm Khải Định thứ năm (1920) cũng ghi lại nguồn gốc sự kiện này, ngoài ra cũng có đoạn viết:
“Than ôi! Thần Mẫu linh thiêng cùng với tạo hóa, non sông nơi đây… Duy Thần Mẫu có công to với quốc dân xã tắc, linh thiêng chở che trăm họ, khiến dân được thuần phác, khiến ai ai khi đến đứng trước đền thờ phải cung kính, sợ sệt, khuyến khích người thiện, trừng phạt kẻ ác, chính là nhờ Thần ban cho vậy…”.
Quỳnh Hoa Công Chúa, Quế Hoa Công Chúa trong tín ngưỡng tứ phủ
Quỳnh Hoa Công Chúa và Quế Hoa Công Chúa là hai vị hầu cận bên Mẫu Thượng Thiên và Tam Tòa Thánh Mẫu. Có thể thấy rằng trong một số đền phủ, lớp trên cùng hậu cung là nơi đặt tượng của Tam Tòa Thánh Mẫu, ở phía hai bên thấp hơn chính là tượng của Chầu Quỳnh, Chầu Quế. Tuy nhiên trong nghi thức hầu đồng thì không có các giá Chầu Quỳnh Chầu Quế.
Một số quan điểm cho rằng Chầu Quỳnh là Chầu Cửu Tỉnh, còn Chầu Quế chính là Chầu Đệ Nhất Thượng thiên, nếu theo quan điểm này thì Chầu Quỳnh và Chầu Quế thuộc Thập Vị Thánh Chầu và được thỉnh và hầu trong nghi thức hầu đồng.
Đền thờ Nhị Vị Quỳnh Quế Công Chúa
Đền Hạ Tuyên Quang – Đền Tam Cờ
Đền Hạ – một di tích kiến trúc tín ngưỡng nghệ thuật cổ ở Tuyên Quang. Đền Hạ còn gọi là Đền Tam Cờ thuộc tổ 4, phường Tân Quang, thị xã Tuyên Quang được xây dựng vào năm 1738 và được trùng tu lần thứ nhất tháng 6 năm Mậu Ngọ (1878). Đền Hạ thuộc loại hình kiến trúc tin ngưỡng, nghệ thuật cổ.
Đền Tam Cờ được xây dựng từ lâu đời, từ lúc nào không rõ, nhưng được xây dựng quy mô vào năm 1738. Đền Ỷ La xây dựng năm 1747. Đền Dùm được xây dựng vào năm 1767. Phong thuỷ của Đền Hạ không phải ở đâu cũng có được, kế sát trước mặt là dòng sông Lô lịch sử, xa xa phía sau là núi Là làm thể tựa. Trải qua các thời kỳ, Đền có nhiều tên gọi khác nhau. Đời Lý gọi là đền Tam Kỳ. Đời Trần có tên là đền Hiệp Thuận (lúc đó đền thuộc thôn Hiệp Thuận, xã Ỷ La, huyện Hàm Yên). Đến Hậu Lê mới có tên là Đền Hạ như ngày nay.
Đền Hạ có kiến trúc theo lối nội công ngoại quốc, hướng chính Đông nhìn thẳng ra sông Lô. Trước sân chầu là hệ thống cổng phụ gồm bốn trụ, trên mỗi đỉnh trụ là một con phượng đắp nổi. Cạnh sân chầu là hai miếu còn gọi là Lầu Cô. Tiếp đến là Lầu Tế, thờ Đệ nhị Thượng ngàn, sau là Tam phủ thờ Đệ nhất Thượng ngàn, gian chính bố trí hình chữ tam gồm ba cung. Trong cung, trên bệ thờ đặt một bộ đỉnh, cạnh bệ thờ treo chuông, khánh… Nghệ thuật kiến trúc cổ nổi bật của đền là chạm khắc gỗ công phu. Các cột, kèo, thượng lương, cửa võng, cửa xiếp đều được chạm trổ tinh xảo, với đề tài là tứ linh và tứ quý. Trên thân cột chạm hình Long Giáng thuỷ cung. Đặc biệt những hình cây, hoa trên cửa võng mềm mại như tranh vẽ.
Trong Đền Hạ Tuyên Quang còn giữ được nhiều bảo vật lâu đời có giá trị nghệ thuật cao, nổi bật là quả chuông đồng, khánh cỡ lớn được đúc vào thời Lê, 3 pho tượng cổ cùng 20 đạo sắc phong của các triều Lê, Nguyễn. Nội dung các sắc phong vừa mang dấu ấn lịch sử vừa mang tính chất văn chương, ca ngợi phẩm chất cao quý và sự linh thiêng của các nương thần, phù trợ cho dân cho nước.
Đền Thượng – Đền Sâm Sơn – Đền Núi Dùm
Đền Thượng nằm tại chân đỉnh núi Dùm, một bên dựa vào núi, bên dưới là dòng sông Lô trữ tình lững lờ trôi, uốn lượn từ phải qua trái, ôm lấy ngôi đền tạo nên khung cảnh trữ tình, thanh bình, linh thiêng. Đền Thượng – Đền Sâm Sơn thuộc địa phận xóm 14, 15, 16 xã Tràng Đà (Thành phố Tuyên Quang), núi Dùm – Cổng Trời có khí hậu trong lành, phong cảnh hữu tình. Đứng tại điểm cao này có thể chiêm ngưỡng toàn cảnh thành phố mộng mơ bên dòng Lê lịch sử.
Ngôi Đền Thượng đã từng có các tên gọi: Đền Sâm Sơn (hay đền Tình Húc). Đây là tên gọi dưới thời Nguyễn, vì lúc đó, núi Dùm được gọi là núi Sâm Sơn thuộc thôn Viên Lâm, xã Tình Húc, tổng Bình Ca, huyện Hàm Yên, phủ Yên Bình (Tuyên Quang). Trong nhân dân còn lưu truyền câu: “Thượng thác Ghềnh, Hạ cầu Chả” – nghĩa là trên thác Ghềnh có đền Thượng, phía dưới gần cầu Chả có đền Hạ. Tên đền Thượng được nhân dân gọi đến ngày nay.
Đền Thượng là một ngôi đền cổ có từ lâu đời (sắc phong sớm nhất vào năm 1743) có niên đại cùng thời với đền Hạ – đền thờ hai nữ thần Ngọc Lân tức Mai Hoa và Phương Dung tức Quỳnh Hoa có quan hệ mật thiết với nhau. Khi tín ngưỡng thờ Mẫu trong dân gian phát triển, nhân dân đã đưa Mẫu Thượng Thiên và Mẫu Thoải cùng hệ thống tượng Ngọc Hoàng, Long Vương, quan Hoàng vào phối thờ.
Đền Ỷ La
Đền Ỷ La thuộc phường Ỷ La thành phố Tuyên Quang. Đền được khởi dựng năm 1743, niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 4 và được trùng tu lại vào đầu thế kỷ XIX.
Theo truyền thuyết, đền Hạ thờ công chúa Phương Dung do gặp nạn binh đao, đền bị đốt phá nghiêm trọng, dân cư phải rước tượng thần đến làng Ỷ La để lánh nạn. Năm 1817 – Năm Khải Định thứ 3 đã cho khởi công dựng lại đền Hạ trên địa điểm cũ nhưng quy mô lớn hơn. Khi đó tại địa điểm tượng thần lánh nạn, dân làng Ỷ La cũng xây dựng đền Mẫu Ỷ La để thờ công chúa Phương Dung. Hiện nay trong đền còn chứa đựng nhiều văn bản, thư tịch Hán Nôm cổ như: hoành phi, câu đối, sắc phong… Đó là những sử liệu rất quý giá, qua đó giúp chúng ta nhận biết được lịch sử, tên gọi của vùng đất, những nét văn hóa của địa phương trải qua trường kỳ lịch sử dân tộc.
Ngôi đền tọa lạc trên một địa thế phong cảnh hữu tình với tán cây xanh cổ thụ bốn mùa tươi tốt, tạo nên những dáng hình kỳ thú, ở đó con người sẽ tận hưởng không khí trong lành và cảm giác thư thái. Từ khi khởi dựng tới nay, trải qua bao biến thiên của lịch sử cùng sự tác động của điều kiện tự nhiên, nên kiến trúc khởi nguyên của đền đã bị thay đổi nhiều. Qua bao thế hệ người dân nơi đây bằng niềm ngưỡng vọng và tôn kính, họ đã luôn gia cố trùng tu tôn tạo cho ngôi đền Mẫu Ỷ La ngày một khang trang sạch đẹp thoả mãn nhu cầu tâm linh của nhân dân và những di vật vẫn được bảo quản, gìn giữ chu đáo.
Đền Thượng cùng với Đền Hạ, đền Ỷ La tạo thành một cụm di tích thờ hai cô công chúa của vua Hùng là Phương Dung Công Chúa và Ngọc Lân Công Chúa tại thành phố Tuyên Quang. Chính vì vậy, phần lễ hội trong năm của 3 đền có liên quan đến nhau.
Trong năm, tại đền Thượng thường tổ chức các ngày lễ lớn như: Lễ khai bút vào ngày 2 tháng Giêng âm lịch (ngày mở cửa đền); Lễ Thượng nguyên vào ngày 10 tháng Giêng âm lịch (lễ giải hạn cho dân); Lễ cầu mưa từ ngày 8 đến ngày 10 tháng 4 âm lịch; Lễ mừng sinh nhật các Mẫu và các vị quan Hoàng vào các tháng 5, 6, 7, 8, 9, 10. Đặc biệt, trước đây trong tháng 2 và tháng 7 âm lịch có hội rước Mẫu. Đây là lễ hội lớn nhất trong năm và là dịp để nhân dân thể hiện các nghi thức diễn xướng.
Lễ hội rước Mẫu đền Hạ, đền Thượng, đền Ỷ La ra đời và tồn tại từ lâu đời, gắn liền với tín ngưỡng thờ Mẫu tại ba ngôi đền đền Hạ, đền Thượng và đền Ỷ La. Hiện nay, lễ rước Mẫu tại thành phố Tuyên Quang đã được khôi phục và được tổ chức vào ngày 12 tháng 2 âm lịch – rước Mẫu từ đền Ỷ La và đền Thượng về nhập cung tại đền Hạ (hai chị em công chúa gặp nhau) và ngày 16 tháng Giêng làm lễ hoàn cung với nhiều hoạt động độc đáo và hấp dẫn. Phần lễ gồm lễ rước kiệu Mẫu và lễ tế. Lễ rước kiệu Mẫu bắt đầu từ đền Mẫu Ỷ La ra đền Hạ, tiếp đến lễ rước kiệu Mẫu từ đền Thượng qua sông về đền Hạ để cùng hợp tế.
Ngày khánh tiệc Nhị Vị Quỳnh Quế
Ngày kỵ nhật Thánh bà Chầu Quỳnh vào 09 tháng 03 Âm lịch và kỵ nhật Thánh bà Chầu Quế vào 15 tháng 03 Âm lịch.
Bản văn Nhị Vị Quỳnh Quế Công Chúa
Bản văn Chầu Quỳnh
Cảnh bầu trời ba nghìn thế giới.
Cung quảng hàn bóng tới hiện mai.
Đào hồng liễu lục bè bai.
Khúc cầm ca vắng bên tai chạnh lòng
Gió thoảng nồng hương xông mát mẻ.
Giáng sinh vào trần thế họ Lê.
Mày hoa tộc phương phương phi.
Phong tu yểu điệu dung nghi khác thường.
Mới phong nàng Quỳnh hoa công chúa.
Vẻ não nùng trí tuệ khoan thai.
Thông minh có vẻ kỳ tài.
Nhất tiểu bách mỹ khác người thường nhân.
Tuổi thanh xuân vừa tuần đôi tám.
Chốn hồng lâu ong bướm chen chân.
Bảng vàng tiến được tiên xuân.
Cam lòng đức ấy nghiêm quân tại đường.
Đạo cương thường khăng khăng hằng giữ.
Dốc một lòng đức tử tòng tâm.
Mới hay trong cõi Việt nam.
Giáng sinh thần nữ khác phạm tiên nga.
Cảnh mẫu đơn phất phơ bóng quế.
Nguyệt cõi hiện bóng xế về Tây.
Ai hay con tạo xoay vần.
Vui lên trúc hóa mai dày đòi phen.
Chốn hồ thiên hợp đoàn tiên nữ.
Thú vui về giá ngự xướng ca.
Ai hay láng nguyệt bóng tà.
Cung tiền áo gót hào hoa siêu phàm.
Ấy ai làm reo thương ong nguyệt.
Đức sinh thành khảm khiết chẳng khuây.
Từ khi chúa dỡ gót giày.
Niềm ăn cúc dục đã xoay tấc lòng
Tự thủy chung nguồn ân bể ái.
Nói liền đan tiên mới tâu qua.
Ngọc hoàng phê chiếu ban ra.
Ban cho chúa ở chầu bà Liễu tiên.
Vâng lệnh truyền sớm trưa chầu trực.
Giữ chung thành công, tắc đám sai.
Anh linh có vẻ kỳ tài.
Quyền hành chức trưởng trong ngoài đảm đang.
Đẹp lòng thánh càng thêm yêu dấu.
Mới phong hàm thiên hậu chúa tiên,
Ngai rồng thay mệnh cầm quyền.
Sổ sinh phó thác thường chuyên nhật dùng.
Chữ nhân nghĩa ra công tế độ.
Phù Việt Nam quốc tộ an ninh.
Chữ rằng thánh giáng lưu ân.
Phù hộ đệ tử thiên xuân thọ trường!
Bản văn Chầu Quế
Gió kim phong ánh vàng xế xế
Cung thỉnh mời Chầu Quế ngự lên
Ngôi cao lồ lộ trung thiên
Toà vàng choi chói của đền thong dong
Sớm khuya vui vẻ đền Sòng
Ngày chơi phủ chính lầu hồng vào ra
Khăng khăng giữ sổ tam toà
Lên đền chầu Chúa Liễu Hoa cầm quyền
Thông tri tam giới hoàng thiên
Coi khắp cửa phủ, miếu đền thiếu đâu
Trong ngoài thay thảy trước sau
Sửa sang mẫu phó quyền chầu bà coi
Quân thần phải đạo chúa tôi
Cô hầu cô hạ nàng đối dập dìu
Khoe xanh xanh tốt đáng yêu
Khoe tài tài khéo khéo chiều lòng xuân
Đền thờ tả phượng hữu lân
Hoa Lan hoa cúc thanh tân chơi bời
Thiên Đình chén rót đầy vơi
Khúc ca điểm đất cợt người người hay
Đàn cầm khéo gây năm dãy
Cung huỳnh gió lọt chuốt mây lọt vàng
Thung dung ghẹo khách qua đàng
Nhỡn tinh lóng lánh mày ngang đằm đằm
Miệng cười hoa nở đáng trăm
Răng đen rưng rức hoãn chằm vàng đeo
Đã lên ngôi báu trong triều
Đã nên ngọc tốt vàng yêu dương toà
Miệng cười tươi tốt như hoa
Thanh tân lịch sự nết na dịu dàng
Càng nhìn càng thắm nhân doan
Nết na yểu điệu muôn vàn thảo hay
Việc nào mà chẳng tới tay
Lên đền xuống phủ chả ngày nào sai
Có phen biến gái hiện trai
Ai thắm thắm vậy ai phai phai liền
Biết ra thời nhẹ như tên
Nếu mà không biết như thuyền bỏ neo
Quở cho trăm chứng hiểm nghèo
Chầu Quế trong triều giá ngự Đồi Ngang
Có phen giả ní giả nàng
Sài di di án sai nàng nàng lên
Có phen làm chúa thượng thiên
Khi giả làm chúa thoải tiên thoải tề
Phàm trần ai thấy tin nghe
khấn thôi tạ lễ miếu nghè kêu văn
Trần phạm kẻ vái người van
Còn đường nhẫn nhục nhân gian mờ mờ
Xem ra số phải phụng thờ
Kẻ khấn người vái nam mô khấu đầu
Biết bà bệnh tật khỏi đau
Kim ngân vàng mã để hầu dâng lên
Thỉnh Chầu chắc giáng bản đền
Khuông phù đệ tử thiên niên thọ trường!