QUAN HOÀNG MƯỜI

Quan Hoàng Mười (Địa Phủ). Danh hiệu: Ông Nghệ An. Màu sắc đại diện: màu vàng

Danh hiệu: Ông Hoàng Mười – Ông Mười Nghệ An – Ông Mười Củi; Nguồn gốc: Con của Vua Cha Bát Hải Động Đình; Phủ/ nơi cai quản: Địa phủ; Trang phục/Màu sắc: Áo vàng

văn khấn quan hoàng mười

Thần tích Quan Hoàng Mười

Theo nhân gian kể lại Quan Hoàng Mười là nhân vật lịch sử có thật, ngài vâng lệnh vua cha giáng trần để giúp đời. Người dân xứ Nghệ cho đến tận ngày nay vẫn còn lưu truyền các truyền thuyết về lai lịch, thân thế, sự nghiệp của Quan Hoàng Mười với những nhân vật có thật trong lịch sử Việt Nam.

“Trấn thủ Nghệ An Quan Hoàng Mười ngài trấn thủ Nghệ An
Về huyện Thiên Bản ngài được làm quan đất Phủ Dầy”

Theo truyền thuyết, Ông Hoàng Mười là con thứ mười của Đức Vua Cha Bát Hải Động Đình, theo lệnh, ông giáng trần để giúp dân. Ông Hoàng Mười không chỉ vì ông là con trai thứ mười mà ông là người tài đức vẹn toàn, văn võ song toàn (“mười” mang ý nghĩa tròn đầy, viên mãn). Không những là vị tướng xông pha chinh chiến nơi trận mạc, ông còn là người rất hào hoa phong nhã, giỏi thơ phú văn chương. Với truyền thuyết về vị tướng “Tài đức vẹn toàn”.

Tướng quân Nguyễn Xí là hiện thân của Quan Hoàng Mười

Sự tích này kể rằng, Quang Hoàng Mười ngài giáng thế làm tướng quân Nguyễn Xí người có công xông pha chinh chiến giúp vua Lê Thánh Tông dẹp giặc nhà Minh. Tướng Nguyễn Xí được vua trọng dụng, giao cho trấn giữ vùng đất quê nhà Nghệ An, Hà Tĩnh.

Ban tho Nguyen Xi

Tại nơi đây ông luôn hết lòng vì dân, lo cho dân. Ông đã từng mở kho cứu trợ tiếp tế, sai quân đốn gỗ làm nhà cho dân khi vùng này gặp hoạn nạn thiên tai. Trong một lần đi thuyền trên sông, thuyền của ông bị nhấn chìm bởi một trận phong bão và ông đã hóa ngay trên dòng sông Lam. Dân chúng biết tin liền đến bên đôi bờ sông Lam mà tỏ lòng thương tiếc, người người khóc thương vị quan hết lòng vì dân

Lúc đưa tiễn ông, bầu trời đang cơn cuồng phong bão táp bỗng chốc tan biến, nổi áng mây vàng ngũ sắc, thi thể của ông nổi lên mặt nước, sắc mặt hồng hào như người nằm ngủ. Khi dạt vào bờ, đất xung quanh bỗng bao bọc lấy di quan. Cùng lúc, trên nền trời bỗng xuất hiện mây ngũ sắc, kết thành xích mã (có bản nói là xích điểu), người ta tin rằng đây chính là các thiên binh thiên tướng đang xuống để rước ông về trời.

Vua Lê Thánh Tông hết lòng thương tiếc vị tướng tài, liền truy tặng ông hàm Thái sư cường quốc công và sai lập đền thờ ở Thượng Xá. Cảm kích trước tấm lòng đức độ của tướng Nguyễn Xí, người dân vùng này tôn ông làm Ông Mười (còn gọi là Ông Mười Củi). Với ý nghĩa số “mười” mang sự vẹn toàn đầy đủ, viên mãn, cũng giống như ông Mười là người văn võ song toàn, tài đức trọn vẹn. Mặt khác, ông cũng là người con thứ Mười của Đức Vua Bát Hải Động Đình. Sau này ông lại được các triều đại phong kiến của Việt Nam tặng nhiều  sắc phong mỹ tự, hiện còn 21 sắc phong của ông được ban tặng đều được lưu giữ tại đền thờ ông.

Quan Hoàng Mười giáng thế làm tướng Lê Khôi

Một sự tích khác cho rằng, Quan Hoàng Mười  hiện thân làm tướng Lê Khôi một khai quốc công thần của nhà Lê Sơ cũng là tướng lĩnh trong cuộc chiến Lam Sơn lẫy lừng. Sử sách còn ghi tướng Lê Khôi là cháu ruột của vua Lê Lợi, ông được vua giao chức trấn thủ Hóa Châu. Vừa hết lòng trấn thủ, giúp vùng an yên ấm no, ông còn luôn đem quân tiếp ứng cho vua dẹp loạn quân Bế Khắc Thiệu, quân Chiêm Thành,… và lập được nhiều công lao to lớn.

Trận đánh ải Khả Lưu, Lê Khôi cùng Lê Sát xông lên trận tiền, bắt sống đô đốc Chu Kiệt, chém tướng Hoàng Thành. Ông lại cùng Phạm Vấn, Lê Sát phá giặc Minh ở thành Xương Giang, bắt sống Hoàng Phúc và Thôi Tụ, dẹp yên giặc Ngô, khôi phục Đông Đô.

Năm Thuận Thiên thứ nhất 1428, ông được phong Bảo Chính công thần nhập nội thiếu úy.

Năm Thuận Thiên thứ 2 khắc biển công thần, đứng hàng thứ 2 trong bảng Đình Thượng hầu thập tứ nhân.

Năm Thuận Thiên thứ ba 1430, Thái Tổ Lê Lợi sai Lê Khôi trấn giữ châu Thuận Hóa, vì người Man quấy phá. Lê Khôi vào đây, dỡ bỏ trạm gác, dạy bảo dân trồng dâu cày ruộng, ngày đêm tập luyện quân sĩ, giữ vững bờ cõi biên cương. Lấy nhân đức cai trị. Đánh nhiều trận, bắt nhiều giặc, nhưng ông đều đối đãi tử tế, tha cho về. Giặc Chiêm vừa sợ vừa mến đức ông. Cống sứ Chiêm ra Bắc, đều ghé thăm ông. Cũng năm đó, Bế Khắc Thiệu, Nông Đức Thái bạo loạn ở Thanh Lâm, Thái Nguyên, Lê Khôi đem quân hợp binh cùng Lê Lợi đánh, bắt bọn Thiệu. Vua Lê tặng kim phù và áo bào.

Năm Thuận Thiên thứ sáu, vua bệnh nặng, gọi Lê Khôi vào cung, bàn việc truyền ngôi cho Nguyên Long. Ông một lòng giúp Lê Thái Tông việc nước.

Năm Thiệu Bình thứ tư 1437, Lê Thái Tông cho ông làm Nhập nội tư mã, tham dự chính sự, coi việc quân ở đạo Hải Tây (Thanh Hóa, Nghệ An, Tân Bình và Thuận Hóa).

Đến năm Thiệu Bình thứ sau 1439, Lê Khôi đánh Ai Lao, bắt sống tướng Man là Đạo Mông.

Năm Đại Bảo thứ nhất 1440, theo vua đánh Thuận Hóa.

Năm Đại Bảo thứ hai, ép tù trưởng Man Nghiễn ra hàng. Khuất phục Thuận Hóa. Công lao quá lớn, được phong Nhập nội đô đốc. Phạm việc nhỏ to, vua đều hỏi ông mới quyết định.

Sau này, vì việc riêng, mà ông bị cách chức. Ông về nhàn cư ở nhà, vui vầy với dân làng, không bất mãn oánh trách.

Lê Nhân Tông lên ngôi, coi ông là bậc nguyên thần cũ, nên năm Thái Hòa thứ nhất 1448, vời ông ra làm Nhập nội thiếu úy, coi việc phủ Nghệ An.

Sử chép, khi Lê Khôi quay về trấn Nghệ An, nhân dân đứng đón ông chật hai bên đường. Chỉ vài năm chính sự được công bằng, kiện cáo được xét xử thỏa đáng, mùa màng tốt tươi, dân yên vật thịnh, tiếng ca tụng ân đức của ông lan truyền từ thành thị đến làng xã ngõ vắng. Tính ông bình dị, gần dân nên được nhân dân cả vùng yêu mến tin tưởng.

Năm Thái Hòa thứ hai 1449, chúa Chiêm Thành là Bí Cái dốc hết lực lượng trong nước ra cướp thành Châu Hóa.

Năm Thái Hòa thứ ba lại đem quan đánh thành An Dung (thuộc Châu Hóa). Lê Nhân Tông sai quan tư đồ Lê Thận (Nguyễn Thận), đô đôc Lê Xí (Nguyễn Xí) đem quân đánh dẹp, sai Lê Khôi đem quân đi tăng viện. Chiêm Thành thua to phải bỏ chạy về nước. Vua phong Lê Khôi là Nhập nội tham dự việc quan trọng triều chính, nhưng vẫn giữ trấn Nghệ An.

Năm Thái Hòa thứ tư 1451, Lê Nhân Tông sai đô đốc Lê Khả (Trịnh Khả) đánh dẹp phương Nam, Lê Khôi đem quân bản bộ tiến trước. Khi đến đất địch, tướng giặc biết có quân Lê Khôi bè gọi sang hỏi: “Có phải Tư Mã đến đấy không?”. Ông bèn bỏ mũ trị ra cho giặc nhìn thấy mặt. Giặc đều xuống ngựa lạy xin hàng, nộp cống vật địa phương. Quân Lê Khôi đi đến đâu giặc tan đến đó. Ông đánh vào tận thành Đồ Bàn, bắt chúa Chiêm là Bí Cái, rồi mới thu quân về.

Trên đường về, Lê Khôi bị bệnh nặng và mất ở chân núi Long Ngâm, gần cửa biển Nam Giới, tức địa danh Hà Tĩnh, cách không xa Hưng Nguyên thuộc Nghệ An bây giờ. Quân sĩ thương xót, kêu khóc vang trời dậy đất, vua bỏ triều ba ngày, sai quan đến phúng điếu, tăng chức Nhập nội đô đốc.

Tướng quân Lê Khôi hiện thân của Quan Hoàng Mười

Tướng quân Lê Khôi hiện thân của Quan Hoàng Mười

Các tài liệu cổ cũng như dân gian ở Thọ Xuân còn ghi rõ, người dân đất Hoan Châu (Nghệ An) bấy giờ thương tiếc và nhớ ân đức của ông nên lập miếu thờ phụng.

Lê Khôi là người làng Lam Sơn (Lương Giang, nay là làng Cham, thị trấn Lam Sơn, Thọ Xuân, Thanh Hóa). Ông là em Thái úy Lê Khang, con Hoàng Dụ Vương Lê Trừ, gọi Lê Thái Tổ là chú ruột.

Năm Quang Thuận thứ tư 1463, triều vua Lê Thánh Tông, con trai ông làm nhập nội Đại hành khiển tâu xin dựng bia ở Nam Giới (Hà Tĩnh giờ) để ghi sự tích. Vua sai thượng thư Nguyễn Như Đỗ soạn văn bia để khắc và được tấn phong Chiêu Trưng Vương.

Ở Nghệ Tĩnh (Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay) có tới 7 ngôi đền thờ Quan Hoàng Mười (chỗ ông Lê Khôi khi mất), còn Hưng Thịnh (Hưng Nguyên, Nghệ An), thì có một ngôi đền rất to. Đền này xây dựng về sau, từ năm 1634, mãi gần 200 năm sau khi tướng Lê Khôi mất. Đền đổ nát, đến tận 1995 mới xây dựng lại, được thổi lên nhiều huyền thoại mới nổi tiếng như hiện nay.

Sự tích Quan Hoàng Mười giáng thế làm Lý Nhật Quang

Một dị bản giải thích cho sự tích Quan Hoàng Mười ghi chép rằng, ông hóa thân làm Uy Minh Vương Lý Nhật Quang, là con trai thứ 8 của vua Lý Thái Tổ. Lý Nhật Quang là anh em cùng cha khác mẹ với vua Lý Thái Tông.

Từ nhỏ, Lý Nhật Quang nổi tiếng thông minh lỗi lạc, được vua cha dạy bảo nghiêm minh để trở thành rường cột nước nhà. Lớn lên, ông được cử vào châu Nghệ An lo việc thu thuế. Ông làm việc cần mẫn, thanh liêm, chính trực, được nhân dân tin tưởng và sau đó được phong chức tri châu Nghệ An. Nhờ có ông, cuộc sống ở Nghệ An đang hỗn loạn, phức tạp trở thành nơi có kỷ cương phép tắc, bách tính ổn định sinh sống.

Không những vậy, Lý Nhật Quang còn góp công không nhỏ trong việc xây dựng trại Bà Hòa. Nhờ có trại kiên cố vững chắc, vua và quân yên tâm chiến đấu và đã đánh chiếm được Chiêm Thành.

Được vua phong tước Vương, ông vẫn hết sức quan tâm đến cuộc sống người dân và sự phát triển kinh tế đất nước. Ông đã hướng dẫn nhân dân dệt lụa, dệt vải, làm nông,… và trở thành tổ sư của nhiều nghề thủ công nghiệp tại Nghệ An. Với con mắt của danh tướng có tầm nhìn chiến lược sâu sắc, ông đã trấn an lòng dân, khai đất khẩn hoang, tạo dựng các tiềm năng thế mạnh để giữ gìn và phát triển bờ cõi đất nước.

Lý Nhật Quang

Tượng thờ Uy Minh Vương Lý Nhật Quang.

Khi mất, ông được nhân dân hai vùng Nghệ An, Hà Tĩnh lập đền thờ phụng ở rất nhiều nơi để bày tỏ công ơn, ghi dấu sự tích đền ông Hoàng Mười.

Trên đây là ba sự tích về Quan Hoàng Mười được tổng hợp lại những quan điểm hiện đang còn lưu truyền trong dân gian về vị thánh hoàng nổi tiếng lừng danh bậc nhất trong tứ phủ này.

Đền thờ Quan Hoàng Mười tại Hà Tĩnh – Đền Chợ Củi

Đền thờ Ông Hoàng Mười tại Hà tĩnh là Đền Chợ Củi, chính là nơi năm xưa di quan ông trôi về và hóa, qua cây cầu Bến Thủy, bên sông Lam, núi Hồng Lĩnh, thuộc xã Nam Đàn, tỉnh Nghệ An (cũng chính là nơi quê nhà của Ông Mười). Ngày ông giáng sinh 10/10 âm lịch được coi là ngày tiệc chính của ông, vào ngày này, du khách thập phương nô nức đến chiêm bái cửa đền ông thật là tấp nập, trải dải đến tận đôi bờ sông Lam, người ta dâng ông: cờ quạt bút sách … để cầu tài cầu lộc cũng là cầu mong cho con em được đỗ đạt khoa cử, thành tài để làm rạng danh tổ tông.

Den tho Ong Hoang Muoi

Ong Hoang Muoi

Khi thỉnh Ông Mười, văn hay hát rằng:

“Ông Mười trấn thủ Nghệ An
Về huyện Thiên Bản làm quan Phủ Dày”

Hay nói về tài đức của ông cũng có đoạn (cả trong hát văn và những câu hò xứ Nghệ):

“Gươm thiêng chống đất chỉ trời
Đánh Đông dẹp Bắc việc ngoài binh nhung
Hai vai nặng gánh cương thường
Sông Lam sóng cả buồm giương một chèo” 

“Đất Nghệ An anh hùng hào kiệt
Tiếng Ông Mười lẫm liệt ngàn xưa
Cung gươm lên ngựa đề cờ
Ra tay gìn giữ cõi bờ Việt Nam” 

“Chí anh hùng ra tay cứu nước
Đi tới đâu giặc bước lui ngay
Việt Nam ghi chép sử dày
Cung cao điện ngọc đêm ngày khói nhang” 

“Năm cửa ô tới Đô Thành
Nam Đàn, Nghi Lộc nức danh Ông Mười”

Rồi có cả đoạn thơ hát khi Ông Hoàng Mười “tái đáo Thiên Thai”:

“Hoa đào rơi rắc lối Thiên Thai
Suối tiễn oanh đưa luống ngậm ngùi
Ngõ hạnh suối đào xa cách mãi
Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng soi
Đá mòn rêu nhạt nước chảy hoa trôi
Ước cũ duyên xưa có thế thôi”

Hay khi dâng ông miếng trầu têm, văn thường hát:

“Đất lề quê thói Nghệ An
Miếng trầu cau đậu dâng Quan Hoàng Mười”

Và có cả khi văn tấu điệu hò Nghệ Tĩnh để ông vỗ gối ban thưởng:

“Muối đã mặn ba năm còn mặn
Gừng đã cay chín tháng vẫn cay
Ghế ông tình nặng nghĩa dày
Xa xôi đến mấy, ra đây ngự đồng”
“Xứ Nghệ vui nhất Chợ Vinh
Đẹp nhất Bến Thủy, anh linh Ông Mười”

Đền thờ Quan Hoàng Mười tại Nghệ An – Đền Mỏ Hạc

Đền Mỏ Hạc thờ Quan Hoàng Mười nằm ở địa phận làng Xuân Am, xã Hưng Thịnh, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Theo ghi chép, đền được xây dựng vào năm 1634, từ thời hậu Lê. Trải qua lịch sử, đền bị phá huỷ. Năm 1995 đền được xây dựng lại, giờ trở thành trung tâm văn hóa tín ngưỡng, tâm linh nổi tiếng của tỉnh Nghệ An.

Đền được xây dựng từ thời Hậu Lê thờ các vị phúc thần trong tín ngưỡng thờ Mẫu tứ phủ của người Việt Nam, trong đó nhân vật chính là Quan Hoàng Mười, người có công hộ quốc bảo dân, được nhân dân khắp mọi miền ngưỡng mộ và tôn kính. Ngoài ra đền còn thờ các vị phúc thần như: Phúc Quận công Trịnh Trung, Đặc tiến phụ quốc Thượng tướng quân Nguyễn Duy Lạc, Song đồng Ngọc nữ.

https://phuday.com/wp-content/uploads/2021/07/den-quan-hoang-muoi-1-min-1024x576.jpg

Đền Quan Hoàng Mười là địa điểm tâm linh thu hút du khách thập phương.

Đền Quan Hoàng Mười dù trải qua lịch sử, bị hư hỏng, đền được phục dựng theo quy mô truyền thống, gồm tam quan, tắc môn, đài trung thiên, lầu cô, lầu cậu. Tại đền giữ 21 đạo sắc phong, bản thần tích chữ Hán và hệ thống tượng pháp có giá trị lịch sử và thẩm mỹ cao.

Khu đền Quan Hoàng Mười chính gồm ba tòa điện, là Thượng điện, Trung điện và Hạ điện. Công trình này mang kiến trúc đền chùa thời nhà Nguyễn. Hiện tại, đền tọa lạc trong khuôn viên rộng khoảng một héc ta.

Năm 2002, Đền ông Hoàng Mười được UBND tỉnh Nghệ An xếp hạng di tích lịch sử – văn hóa. Năm 2018 Đền được công nhận là điểm Du lịch văn hóa tâm linh; năm 2019 lễ hội được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

Vật liệu dựng đền sau này đều làm bằng gỗ, được chạm trổ công phu với các hoạ tiết long, lân, quy, phụng. Tam quan nằm liên tiếp nhau và sâu vào bên trong. Khách đi lần lượt từ Thượng điện cho đến Hạ điện. Quan sát từ bên ngoài, khách sẽ bắt gặp hình ảnh mái ngói có tạo hình rồng ở chóp – lối kiến trúc điển hình thường thấy ở các ngôi đền, chùa Việt. Ngoài thờ ông Hoàng Mười, đền còn thờ các vị phúc thần: Lê Khôi, Quận công Trịnh Trung, Song Đồng Ngọc Nữ và hệ thống đạo Mẫu tứ phủ, mà người đứng đầu là Thánh Mẫu Liễu Hạnh.

Quan Hoàng Mười là nhân vật quan trọng trong hệ thống thần điện tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ, Tứ Phủ của người Việt. Hàng năm, khu di tích đền Quan Hoàng Mười thường đón hàng trăm nghìn du khách vào mùa lễ hội. Không chỉ đến để cầu nguyện mà du khách còn có dịp khám phá nét tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể.

https://phuday.com/wp-content/uploads/2021/07/den-quan-hoang-muoi-4-1024x724.jpg

https://phuday.com/wp-content/uploads/2021/07/den-quan-hoang-muoi-2-min-1024x576.jpg

Được xem là một trong sáu ngôi đền thiêng lớn nhất Nghệ An, đền Quan Hoàng Mười mỗi năm đền đón hàng vạn người dân xứ Nghệ và du khách thập phương đến chiêm bái, cầu an, cầu lộc. Trong đó, nhộn nhịp nhất là hai kỳ lễ hội lớn: Lễ hội khai điểm vào rằm tháng 3 (âm lịch) và Lễ hội giỗ Quan Hoàng Mười từ ngày 8/10 đến 11/10 (âm lịch). Trong đó, giỗ ông Hoàng Mười được coi là mùa tạ lễ quan trọng nhất.

https://phuday.com/wp-content/uploads/2021/07/den-quan-hoang-muoi-3-min-1024x576.jpg

Chính điện Đền Quan Hoàng Mười

Đền Quan Hoàng Mười Nghệ An cũng là một trong những nơi diễn ra Đại lễ cầu siêu các anh hùng liệt sỹ đã hy sinh trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm…Lễ hội đền Quan Hoàng Mười thực sự là dịp để tôn vinh giá trị văn hóa truyền thống, giáo dục tình yêu quê hương, đất nước và đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Đồng thời cũng là dịp để du khách thập phương hành hương về với Nghệ An – vùng đất có truyền thống văn hóa, lịch sử, yêu nước và cách mạng, nơi đã sản sinh, nuôi dưỡng nhiều bậc hiền tài, khoa bảng, nhiều tấm gương kiên trung, nghĩa liệt mà cuộc đời, sự nghiệp của họ đã làm rạng ngời quê hương, đất nước. Khi diễn ra, phần lễ được tổ chức trang trọng, linh thiêng với đầy đủ các nội dung như: Lễ Khai quang, Yết cáo, Lễ rước, Đại tế, Lễ tạ.

Hầu giá Quan Hoàng Mười

Cùng với Ông Hoàng Bảy, Ông Hoàng Mười cũng là một trong hai vị Ông Hoàng luôn về ngự đồng, cũng bởi vì ông còn được coi là người được Vua Mẫu giao cho đi chấm lính nhận đồng (khác với Ông Bảy, những người nào mà sát căn Ông Mười thì thường hay hào hoa phong nhã, giỏi thi phú văn chương). Khi ngự về đồng Ông Mười thường mặc long phục, áo vàng (có thêu rồng kết uốn thành hình chữ thọ), đầu đội khăn xếp có thắt lét vàng, cài chiếc kim lệch màu vàng kim. Ông ngự về tấu hương rồi khai quang, có khi ông múa cờ xông pha chinh chiến, có khi lại lấy quạt làm quyển thư, lấy bút gài đầu để đi bách bộ vịnh phú ngâm thơ, có khi ông lại cầm dải lụa vàng như đang cùng người dân lao động kéo lưới trên sông Lam (quan niệm cho rằng đó cũng là ông kéo tài kéo lộc về cho bản đền) và ông cũng cầm hèo lên ngựa đi chấm đồng như Ông Bảy, người ta cũng thường dâng tờ tiền 10.000đ màu đỏ vàng để làm lá cờ, cài lên đầu ông. Khi ông ngự vui, thường có dâng đọi chè xanh, miếng trầu vàng cau đậu, thuốc lá (là những đặc sản của quê hương ông) rồi cung văn tấu những điệu Hò Xứ Nghệ rất mượt mà êm tai.

Quan Hoàng Mười được coi là một trong hai vị Quan Hoàng hay về ngự đồng nhất, do ông là người được  Mẫu giao đi chấm lính nhận đồng. Những người sát căn ông Mười thì thường hào hoa phong nhã, văn võ song toàn đặc biệt là văn chương rất giỏi. Khi ngự về đồng, ông thường mặc long phục, áo vàng có thêu rồng uốn lượn thành chữ Thọ. Đầu đội khăn xếp thắt lét vàng, kim cài lệch màu vàng kim. Ông ngự về tấu hương rồi khai quang. Sau đó, ông múa cờ chinh chiến, có khi lại ngâm thơ, cũng có lúc ông lại lấy dải lụa vàng như đang cùng người dân kéo lưới trên sông Lam, tượng trưng cho việc kéo tài lộc về cho bản đền. Giống như ông Bảy, ông Mười cũng cầm cây hèo cưỡi ngựa đi chấm đồng.

Khi lễ ông, người ta thường dâng đọi chè xanh, miếng trầu, thuốc lá là những đặc sản quê hương Nghệ An để ông ngự vui, cùng những điệu hò xứ Nghệ mượt mà say đắm dâng ông.

Bài hát văn Quan Hoàng Mười thứ nhất

Trấn thủ Nghệ An … Quan Hoàng Mười trấn thủ Nghệ An
Về huyện Thiên Bản làm quan đất Phủ Dầy

Chống đất chỉ trời gươm thiêng…chống đất chỉ trời ì i
Đánh đông dẹp Bắc việc ngoài hì binh nhung í ì i

Một đấng anh hùng tuổi thanh xuân…một đấng anh hùng ì i
Tài danh nổi tiếng khắp vùng…khắp vùng đất trời Nam í ì i

Vô chùa niệm Phật Quan Âm Phật ban
Bốn chữ minh tâm thiện tài ở trong thời, trong thời học phép Như Lai í ì ì ì
Trong thời học phép Như Lai mà đêm đêm ôn luyện văn bài, sử kinh Hoàng tiêu dao
Tiêu dao di dưỡng tính tang tình í i ì ì

Tiêu dao di dưỡng tang tình thơ Tiên
Một túi sách Phật kinh trăm tờ lúc thửa nhàn, thửa nhàn họa phú ngâm thơ í i ì ì

A phụng giá ông Hoàng hôm nay phụng giá ông Hoàng
Sớm hôm nhang khói đăng nhang phụng thờ chân kinh có chữ nam mô A Di Đà Phật
Hoàng đi chấm đồng tay ông có phép thần thông

Bút pháp tinh anh tửu nhập thần, hoa khai quả kết vạn cảnh xuân
Tay Tiên bình bút an trăm họ, thiên hạ âu ca hưởng thái bình
Mới hay là thú hữu tình, gió trăng bầu bạn rượu bình tri ân
Trông lên mà đỉnh giáp non thần, cảnh Tiên như giục bước chân lên ngàn
Thung dung giữa chốn thạch bàn, tai nghe tiếng hát tiếng đàn thông reo
Nhìn lên đỉnh núi chân đèo suối trong nước chảy trúc reo quanh đồi
Hương thơm thoang thoảng gọi mời, Bồng lai tiên cảnh giữa nơi phàm trần
Cung hoa gác ngọc lầu tần, tay Tiên chuốc chén kỳ tân dâng mời

Trông hoa con lại nhớ đến Người
Xuân về chúng con lại nhớ đến đức Hoàng Mười, đức Hoàng Mười trong tỉnh Nghệ An
Để tay Tiên chuốc chén rượu mời
Nhất tuần sơ dâng lên bệ ngọc dâng lên để cúng Mẫu
Thừa huệ dâng mời là mời rước ông Hoàng Mười xơi
Các cô dâng mời là mời rước ông Hoàng Mười xơi
Quỳnh tương chuốc chén rượu mời
Rượu sen cùng là rượu cúc các cô dâng mời là mời rước ông Hoàng Mười xơi
Các cô dâng mời là mời rước ông Hoàng Mười xơi
Nhất tuần sơ nhị tuần á ông hiến cạn rồi
Tam tuần chung dâng lên cúng Mẫu
Thừa huệ dâng mời là mời rước ông Hoàng Mười xơi
Các cô dâng mời là mời rước ông tam tuần chung

Hờ … hơ chứ đất Nghệ An có anh hùng hào kiệt
Tiếng ông Mười còn lẫm liệt ngàn xưa
Hoàng vung gươm lên ngựa đề cờ, ra tay gìn giữ cõi bờ Việt Nam
Hơ hờ…hơ hờ….hơ hớ
Chứ chí anh hùng ông Hoàng Mười ra tay sấm sét
Đi đến đâu giặc phải tan ngay chứ Việt Nam còn ghi chép sử này
Cùng bao đền ngọc đêm ngày khói hương
Hờ…hơ chứ Hoàng về dâng tiễn tuần hương
Mà khấu đầu vọng bái mười phương…mười phương xin độ trì

Chở che nào có xá gì trăm năm Hoàng tu đức cũng vì ngày hôm nay
Rượu đào…rượu đào nhấp chén nhưng chớ say
Vui cùng thế sự vài giây…vài giây cho thỏa lòng
Bao công lao đắp điếm vun trồng, tưới lan thời lan tốt vun hồng thời hồng xanh
Phong khăn điều áo ngự hoàng anh bút trần đố ai họa được bức tranh ông nào tày
Vòng vàng nhẫn ngọc lòng tay cổ đeo kim khánh chân hài thêu hoa
Trăng bao ơ ớ ơ ờ nhiêu tuổi trăng già
Ghế Hoàng năm nay bao tuổi mà vẫn hào hoa, hào hoa hơn người
Thế gian có nhớ miệng Hoàng cười, nhớ câu hoàng nhủ, nhớ lời Hoàng truyền ban
Đời người chỉ ngắn tấc gang gắng tu nhân tích đức ắt vẻ vang trong gia đình
Như cây muốn tốt lá mà xanh cành, nhất tâm thời tu đức
Ta dành…ta dành phần cho í i à
Người ơi đừng ngại chớ lo, cõi tu như bể rộng nhưng khéo dò vẫn tới nơi í i à
Người ta sống ở trên đời tiền dòng bạc chảy để rồi làm chi
Cuối cùng cũng chẳng đem đi mà đem đi cũng chẳng làm gì cho ai
Cho nên đã có lộc lại có tài nhưng phải có phúc
Rồi lại phải thọ để hưởng lộc đời ta ban
Kẻ nào a ới à còn kẻ nào dạ hiểm lòng gian
Đảo điên tráo trở ta xóa cho tan sạch lầu
Ai thủy chung đức độ trước sau ta mở đường hạnh phúc bắc cầu vinh hoa
Ta cho rộng cửa cao nhà, buôn may thời bán đắt lộc đề đa luôn thịnh cường
Thương ai vất vả đoạn trường, gian nan thời càng lắm ta thương…ta thương càng nhiều
Chở che a ới à chở che che chở mọi điều
Qua cơn bĩ cực sẽ tới chiều thái lai
Ta cho lộc ta cho tài chiều có khi vơi tối khi cạn nhưng sớm mai lại đầy
Nhắc ai nhớ lấy câu này càng nhiều tâm đức thì càng dày vinh hoa
Lòng trời… lượng bể bao la …lòng trời lượng bể bao la
Đuốc thần luôn chiếu rạng khắp hải hà sơn khê
Đã thương vạn sự chẳng nề, trăm điều chếch lệch ta cũng kê cho lại bằng
Vì cam cho quýt đèo bòng, cõi trần còn nhiều duyên nợ nên lòng còn băn khoăn
Xiết bao bể ái nguồn ân ban tài tiếp lộc thi nhân thi từ
Cát đằng thuận gió xuân đưa như xui quân tử đưa thư hảo cầu
Mười hai tố nữ theo hầu trâm hoa cài tóc khăn nhiễu tàu vắt vai
Đầu lược dắt, chân giận văn hài
Cô cả dâng điếu ngự còn cô nàng hai đi theo hầu
Cô ba vội xếp theo sau đất lề quê thói cô tư trên chầu rước ông Mười xơi
Cô năm dâng giá gương soi còn cô nàng sáu rượu đã rót rồi tay chuốc mời ông
Cô bảy dâng đóa huê hồng còn cô nàng tám phò giá kiệu rồng rước ông Mười lên
Cô chín múa lượn sênh tiền vào nhịp ba ra nhịp bảy khiến khách Tiên mơ màng
Cô mười thỏ thẻ oanh vàng tiếng tiêu thời cô thổi khiến lòng Hoàng cứ phiêu diêu
Còn cô mười một a ới à còn cô mười một yểu điệu mỹ miều, lụa hồng thời cô múa khiến làm liêu xiêu lòng Hoàng
Còn cô mười hai chau chuốt dịu dàng, đàn cầm tay gẩy khúc nghê thường nghe xốn xang
Đủ mười hai cô phò tá ông Hoàng, hương xông chiếu huệ màn loan huê hồng.

Ở trên thượng thiên các cô rẽ áng mây vàng, cưỡi con xích điểu rước ông Hoàng Mười về Nghệ An.

Xe loan thánh giá hồi cung.

Bài hát văn Quan Hoàng Mười thứ hai

Cành hồng thấp thoáng trăng thanh
Nghệ An có đức thánh minh ra đời
Gươm thiêng chống chỉ đất trời
Đánh Đông, dẹp Bắc việc ngoài binh nhung

Thanh xuân một đấng anh hùng.
Tài danh nổi tiếng khắp vùng Trời Nam
Hai vai nặng gánh cương thường
Sông Lam sóng cả, buồm dương một chèo.

Dựng nền đức Thuấn nhân Nghiêu
Sóng yên bể lặng sớm chiều thảnh thơi
Khi Bích động lúc Bồng lai
Non nhân, nước trí mọi nơi ra vào

Cỏ hoa hớn hở đón chào
Nhớ xưa Lưu Nguyễn lạc vào Thiên thai
Trời Nam có đức Hoàng Mười
Phong tư nhất mực tuyệt vời không hai

Nền chí dũng, bậc thiên tài,
Văn thao – Võ lược tư Trời thông minh.
Tiêu dao di dưỡng tang tình.
Thơ Tiên một túi – Phật Kinh trăm tờ.

Khi Phong nguyệt, lúc bi từ.
Khi xem hoa nở, khi chờ trăng trong.
Khi Thiếu lĩnh, lúc non Bồng,
Cành cây mắc võng, lòng sông ngự thuyền.

Người Thành thị, khách Lâm tuyền,
Nam thanh nữ tú mình quyền bóng sang.
Phong quang đẹp ý Đức Hoàng.
Khác nào Thu cúc – Xuân lan tới tuần.

Xiết bao bể ái, nguồn ân.
Ban Tài, tiếp Lộc, thi nhân, thi từ.
Cát đằng thuận gió xuân đưa
Xui lòng quân tử đề thơ hảo cầu

Năm ba Tiên nữ theo hầu,
Trăm hoa cài tóc, nhiễu Tàu vắt vai.
Phong hoa tuyết Nguyệt đượm mùi,
Dâng câu thiên bảo chúc lời tăng long
Trần duyên chưa trút được lòng,

Đường mây sớm trở xe hồng thượng Thiên.
Nghe thường hội nghị quần Tiên,
Nghe tin người đến thiên duyên chạnh lòng.
Vân tiên mượn cánh chim hồng,

Xin người soi tỏ tấc lòng cho chăng ?
Cầu Ô đem bắc sông Ngân,
Ngồi trong cung Quảng đêm Xuân mơ màng
Bóng trăng soi tỏ canh trường.

Đã cam tấc dạ tuyết sương cùng người.
Thủy tiên dìu dặt đón mời,
Bấy lâu khao khát đầy vơi chạnh lòng.
Vượt bể đào tới ngàn xanh.
Đường Tiên cảnh cũ nặng tình nước non.

Trúc xinh cô Quế cũng giòn.
Phù dung yểu điệu – Mẫu đơn não nùng.
Ngày ngày lên núi ngóng trông.
Đỏ hai khóe hạnh chờ mong Đức Hoàng.
Nhớ xưa hẹn ngọc, thề vàng.

Mừng nay tỏ mặt Đức Hoàng tới nơi
Lên núi rồi lại xuống đồi,
Dưới trăng luống những đứng ngồi ngẩn ngơ.
Vào rừng hái lá đề thơ,

Cậy đôi cánh Nhạn tin đưa tới người.
Cõi Trần mở tiệc mừng vui.
Đông về nhớ Đức Hoàng Mười giáng sinh.
Rượu đào kính chúc Thánh minh.

Phong hoa, tuyết nguyệt phẩm bình mấy chương.
Ngẫm câu Thế sự vô thường
Tấc son mượn nước cành dương tưới nhuần
Vắng người vắng cả mùa Xuân.

Nhớ người vì Nước, vì Dân, vì Đời.
Thế gian nhớ miệng Hoàng cười
Nhớ khăn Hoàng chít, nhớ lời Hoàng ban.
Khi phố Cát, lúc đồi Ngang,
Nón kinh vó ngựa, dăm ngàn tiêu dao.
Đường đường cung kiếm anh hào,
Túi thơ, bầu rượu sớm chiều xênh xang.
Hèo hoa chảy hội Tiên hương
Chấm đồng nhận lính khắp miền Đông Tây.
Khi nương gió, lúc cưỡi mây.
Khi rung khánh ngọc, khi lay chuông vàng.

Hoàng về gối xếp ai mang,
Hèo hoa ai vác ngựa vàng ai trông.
Lệnh truyền cô Quế, cô Hồng,
Hèo hoa, gối xếp, đèn lồng tay mang.
Cô Lan, cô Huệ xếp hàng,
Gióng yên, dắt ngựa lên đàng vân du.
Thuyền Rồng thấp thoáng chèo đưa,
Tinh kỳ nhã nhạc Hoàng về Nghệ An

Bài phú chuốc rượu Quan Hoàng Mười

Bồ đào tửu Linh Sơn tiên nữ cất
Đợi xuân về hội nghị quần tiên
Rượu nồng tiên nữ dâng lên
Tuần sơ dâng tiến án tiền mời Hoàng xơi
Hoàng cúc bôi trung đường tiên tửu
Hằng Nga thiên thượng tuyết thu ba
Tay tiên chuốc chén hoàng hoa
Nhị tuần dâng tiến mới đà thiết thi
Sao thế nhỉ trăng khi mờ khi tỏ
Gớm ghê thay nàng Ngọc Thỏ đa tình
Tay tiên chuốc chén rượu quỳnh
Tam tuần hiến, hỏi ba vạn sáu ngàn ngày là mấy…

Các đoạn thơ phú dâng văn Quan Hoàng Mười

Phú:

Bởi tiền thế tu nhân tích đức
Khiến xui lên gặp bạn tiên cung
Nợ trần hoàn vương vấn chưa xong
Giục lòng khách mơ mòng tưởng nhớ
Nay đến lúc Hoàng về người ở
Thôi thôi đành vĩnh cách trường ly
Nghĩa trăm năm còn bức ca thi
Dâng hoàng tử làm khi tiễn biệt
Một lối lên tiên nhẹ gót trần
Mây trời cỏ đất hội long vân
Ba sinh gặp gỡ say vì cảnh
Một phút mơ màng vạn cảnh xuân
Văng vẳng bên tai cung đàn nguyệt
Vang vang trong động thú chào xuân
Chẳng hay cảnh ấy về đâu tá
Mong tới nguyên đào vẫn chủ nhân
Hoa đào rơi rắc lối thiên thai
Suối tiễn oanh đưa luống ngậm ngùi
Nửa năm tiên cảnh bước trần ai
Ước cũ duyên xưa có thế thôi
Đá mòn rêu nhạt nước chảy hoa trôi
Cánh hạc bay cao vút tận trời
Ngõ hạnh vườn đào xa cách mãi
Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng soi
Yên hà lối trước lại lần sau
Nước biếc non xanh thắm một màu
Đàn hát hôm nay êm dìu dịu
Hạt mây này nọ sạch lầu lầu
Cây xưa lối cũ say vì cảnh
Gió mới xuân về chẳng khác xưa
Nhìn tiên cảnh năm xưa còn đứng đó
Hỏi người năm cũ bây giờ đâu

Hò Nghệ An:

Đất lề quê thói Nghệ An
Miếng trầu cau đậu dâng quan Hoàng Mười
Trông hoa lại nhớ đến Người
Đông về lại nhớ Hoàng Mười Nghệ An
Đất Nghệ An có anh hùng hào kiệt
Tiếng Ông Mười lẫm liệt ngàn xưa
Vung gươm lên ngựa đề cờ
Ra tay gìn giữ cõi bờ Việt Nam
Chí anh hùng ra tay giữ nước
Đi tới đâu giặc phải tan ngay
Việt Nam ghi nhớ sử này
Cung cao điện ngọc đêm ngày khói nhang
Khi hội nghị luận bàn việc nước
Hoàng mang tài thao lược hiến dâng
Lĩnh sắc rồng khiển tướng điều quân
Gươm thiêng ba thước,ngựa hồng xông pha
Đò từ Đông Ba đò qua Vĩ Dạ,
Đò từ Đầm Đá tới Phú Vân Lâu
Non xanh nước biếc một màu
Một con đò nhỏ đưa ghế ông về thăm cảnh Nghệ An
Cũng có phen lên ngàn xuống bể
Trở ra về phủ tía lầu son
Cũng có phen ngắm ánh trăng tròn
Khi xem huê nở khi chờ trăng lên
Đường về xứ Nghệ nghĩa tình,
Sông Lam núi Quyết địa linh bao đời,
Tam Kỳ Mỏ Hạc là nơi,
Đền thờ lăng mộ đời đời khói nhang
Nước sông Lam răng trong răng đục
Gạo chợ Chùa vừa trắng vừa trong
Ghế ông tình mặn nghĩa nồng
Điều lành điều dữ sá cùng trần gian
Muối ba năm muối kia còn mặn
Gừng chin tháng gừng hãy còn cay
Ghế ông đây tình nặng nghĩa dày
Xa xôi chăng mấy cũng về đây ngự đồng
Thuyền rồng còn đợi bến sông
Chở các thanh đồng đi hội trong Nghệ An
Cho dù cách trở sông Lam
Có cầu Bến Thuỷ bắc ngang đôi bờ
Dòng sông Lam bên lở bên bồi
Dấu thiêng Hoàng để muôn đời khói nhang
Đất Thiên Bản còn nhớ người trấn thủ
Đền Mẫu Phủ Dầy còn lồng lộng chữ công danh
Ông Mười trấn thủ trong thành
Mười ba năm lẻ còn nức danh tướng tài
Thành Huế ơi sông Hương răng núi Ngự
Cầu Tràng Tiền ,Bến Thuỷ đẹp long lanh
Năm cửa ô về tới đô thành
Nam Đàn xứ Nghệ nức danh Hoàng Mười
Đường vô xứ Nghệ loanh quanh
Nơi Ông Mười ngự như tranh hoạ đồ
Ai vô xứ Nghệ thời vô
Qua cầu Bến Thuỷ tới kinh đô Hoàng Mười
Ngắm xem phong cảnh đất trời
Nghệ An mến khách mến người trọng ân
Cỏ cây chưa trút bụi trần
Đường về chẳng biết rằng gần hay xa
Xinh thay hỡi thú yên hà
Đào nguyên ướm hỏi ai là chủ nhân
Đường xa muôn dặm cũng gần
Giáng lâm giá vũ đằng vân ngự đồng
Chim khôn đã phải cẩm lồng
Cau non, thuốc lá chiều lòng (Hoàng) ăn chơi
Vân du góc bể chân trời
Không đâu lịch sự bằng nơi đền này
Bao giờ Hồng Lĩnh hết cây
Sông Lam hết nước ghế ông đây chưa hết lộc tài
Độ cho đắc lộc tài sai
Thọ khang phú quý trong ngoài hanh thông
Bốn mùa xuân hạ thu đông
Thu Đông tiếp lộc,hạ xuân tiếp tài
Ai mà ăn nói đơn sai
Dù cho của cải cũng để ngoài bể đông
Thương ai chấp lính nhận đồng
Tu nhân tích đức lên công vẹn thành
Ai ơi nên ở cho lành
Kiếp này chưa trọn Hoàng để dành kiếp sau
Nào trời có phụ ai đâu
Sở nguyện như ý sở cầu tòng tâm
Ai mà tích đức tu nhân
Đắp bồi cội phúc thêm phần đề đa
Trăng bao nhiêu tuổi trăng già
Ghế Hoàng bao nhiêu tuổi mà vẫn hào hoa như thuở nào
Trên trời vằng vặc ngôi sao
Trời nam chói lọi anh hào cổ xưa
Thương người dầu dãi nắng mưa
Thương người đi sớm về trưa nặng lòng
Chứng tâm chứng lộc cho đồng
Cho cầu nên ước được gia trung thuận hoà
Các cô quạt nước pha trà
Quần tiên múa hát xướng ca hoạ vần
Cô dâng lên chiếc quạt trầm
Nghiên vàng bút ngọc ân cần khoan thai
Đầu lược giắt,chân giậm văn hài
Cô cả dâng điếu ngự,cô nàng hai theo hầu
Cô ba gối xếp theo sau
Đất lề quê thói cô tư têm trầu Hoàng xơi
Cô năm dâng giá gương soi
Còn cô nàng sáu rượu mời dâng ông
Cô bảy dâng đoá huê hồng
Còn cô nàng tám kiệu rồng rước(ông Mười) lên
Cô Chín múa lượn xênh tiền
Thướt tha yểu điệu khách tiên mơ màng
Cô Mười thỏ thẻ oanh vàng
Tiếng tiêu cô thổi khiến lòng Hoàng nâng nâng
Cô mười một thơ hoạ đôi vần
Dâng ông quý vật kì tân đủ mùi
Cô mười hai sắc nước hương trời
Mười hai cô tiên nữ phò giá Ông Mười lai kinh

Lý Nghệ An:

Thuyền ai thả lưới buông câu
Khoan hỡi dô khoan thuyền Quan hoàng Thập
Dập dìu trên sông sóng nước mênh mông
Hương ngát bay trong đền lòng hoàng thấy lâng lâng
Uy danh sáng soi muôn đời một lòng giữ yên trời nam
Muôn dân bắc nam phụng thờ hoàng độ cho nước non bình an
Lòng hoàng thương đồng còn nhiều gian nan
Nắng mưa không quản xin hoàng chứng cho lòng con
Tâm tư theo cánh nhạn hồng gửi về xứ thiên trời nam
Độ cho phúc lâu giàu bền lộc vô nhà như nước dòng sông lam

Bên dòng sông lam có đền đức quan hoàng Mười
Địa linh nhân kiệt vang danh lưu dấu muôn đời
Ngự đồng chơi hào hoa phong nhã
Bao người ngóng trông hộ quốc dân an cho mai sau đời đời ấm no
Phúc lai cho thanh đồng ghế ông hằng ghi nhớ mãi
Con cúi xin ông Mười ông về tiếp lộc để lần sau.

Bản văn Quan Hoàng Mười (Cải lương)

Ông Hoàng Mười trấn thủ đất Nghệ An, về Thiên Bản làm quan đất Phủ Dầy

Sông Lam Hồng lĩnh đẹp như tranh
Tạo hóa xưa kia đã lập thành
Muôn thủa núi sông bền vững mãi
Nam đàn xứ Nghệ mãi còn danh

Nghe tiếng chuông vang
Con thấy ông quan Hoàng… loan giá nơi Tây hồ
Mặc áo vàng gấm thêu hoàng hoa
Tay tiên viết câu thơ thần
Quạt ngà gió bay gần xa

Ngày ngày bên lầu
Hai nàng tiên nữ thướt tha yêu kiều
Dàn dâng lên khúc Nam thương
Giọng ngân líu lô oanh vàng
Để lòng Hoàng xiết bao niềm vui
Khi xa chúng nhân xa rồi
Mà lòng còn luyến lưu đầy vơi

Tiệc vui hôm nay…vui quá đi thôi
Hát ca tưng bừng ngự vui
Để tiên cảnh đèn hoa tươi
Mây trên trời cũng ngừng trôi
Đón quan Hoàng ngự vui…

Tiệc vui…ông về bút phê sớ hồng
Độ cho ghế họ Trần …trong nhà tốt tươi mầu hồng
Đệ tử hôm nay cầu mong tôn kính bái Phật tuyên kinh
Mà lầm lỡ điều chi con xin ông hóa phép thần thông
Chứng giám cho họ Trần
Người trần gian mà nặng căn cao số
Cúi xin ông Mười ông ban tài tiếp lộc đề đa

Xưa ngoại bang…xâm lấn..i…giang sơn cõi bờ
Vâng lệnh Vua cha..Hoàng lĩnh ấn phong kiếm cờ
Xua loài xâm lăng ..phút tan không ngờ
Khải hoàn ca…hạc sa theo gió mây bóng về tiên
Trời Nam sáng khí linh thiêng
Nước non này mãi mãi được bình yên
Cõi Bồng lai…chợt nghe tấu đối …ghế ông tâm thành
Vâng lệnh Vua cha ..Hoàng xuống nơi dương trần
Vâng lệnh Mẫu vương ..Hoàng giáng lên ngự đồng

Hoàng về đây…
Ngàn hoa thơm ngát…i…hương khói quyện bay
Rằng ngày hôm nay khánh lắc chuông lay
Khoác áo hoàng bào nhẫn ngọc lồng tay..i

Đường về Nghệ an …ngàn mây xanh thắm
Nắng sớm long lanh…núi Hồng soi bóng dòng Lam
Tiếng chim ca hòa trong gió …gió bay rộn ràng

Về Nghệ an thấy lòng xốn xang
Nghe danh thơm quan Hoàng ban
Xin cúi đầu thắp một tuần nhang…

Cầu xin quan Hoàng ban cho phước lớn
Bán đắt buôn may..xuôi ngược nẻo đông đường tây
Bước chân đi Quan Hoàng đưa lối dắt tay chỉ đường
Đời gian nan khó nhọc hoang mang
Ai nhất tâm quan Hoàng ban
Nương bóng Hoàng sẽ được bình an
Từ Nghệ an quan Hoàng giáng lâm nơi này
Dù đường xa cách trở …đâu ngại gió sương đêm ngày
Hoàng ngự về đây…đồng sang bóng quý
Quan Hoàng ngất ngây…
Sau trước gần xa xem ai hữu duyên Hoàng thương
Ông thương cho họ Trần thập niên bình yên mãi mãi
Tiếng ca cung đàn đón Hoàng vui ngự về đền đây…

Cúi xin ông ban phước cho thanh đồng
Cho tiếng ca cung đàn
Cho người trần thế chúng con bình an
Bốn phương nước non thanh bình
Đời đời cháu con hiển vinh

Đời người
Ai mà có lần may mắn ngắm dung nhan Hoàng
Ngự đồng ảnh bóng xuống dương gian
Mới hay trong tiệc Đạo lành
Ngự đầu đồng có ai đẹp bằng quan
Khi ông giá lâm thượng đồng
Đẹp rạng ngời sáng lên hào quang…

Người ta nam bắc đông tây
Bán buôn trăm nghề đều gặp may
Còn chúng con cứ miệt mài mê say
Dâng cung đàn tiếng ca…xin quan Hoàng chứng tâm…

Trầm hương bay ngát thơm trong đền
Hương lòng chân quý
Nguyện dâng lên Đức Thánh ông Hoàng Mười
Đàn tràng hôm nay con nguyện xin Thánh tôn ngự về
Tỏ lòng nhân thứ kính xin Hoàng Mười độ cho
Các ghế giầu sang vẻ vang
Khúc văn ca để tấu dâng Hoàng…

Hội rồng mây…quần tiên ca vũ
Gió ngát , hương bay…tấu nguyện Thánh tôn về đây
Chiếc long xa , ông Mười cưỡi gió rẽ mây vội vàng
Ngự từ trung chính điện vẻ vang
Ai có tâm Thánh Hoàng thương
Phúc ân Hoàng chiếu ban sáng tỏ thọ khang

Dâng khúc ca thành tâm ..
Dâng kính tôn ông Mười
Hương khói bay ngập trời…
Ngạt ngào khói thơm mọi nơi
Ước mong Thánh ân gia hộ
Hộ trì ghế ông bình an…

Văn đàn tâm thành chuyên nhất
Đắm say cung bậc…tâm thành cung kính nguyện đâng
Kính xin Thánh ân gia hộ
Độ muôn nhà phúc duyên tụ lai
Ghế ông nhất tâm tiệc bầy
Đàn tràng sắt son tình thâm

Ngàn muôn câu hát dâng lên
Kính xin Đức Hoàng ngự thương
Chúng con nguyện muôn đời tựa nương
Kính xin Hoàng ..ông gia hộ độ thương…

Mừng quan Hoàng …là mừng quan Hoàng
Vui ngự trần gian
Ngàn hoa nở đua sắc phô nhan
Hương bay ngào ngạt
Người quân tử vâng lệnh sai giá ngự trần gian
Ban lộc tài cho đấng vô thường

Thuyền ai ngự, mà thuyền ai ngự
Sóng nước mênh mang,
Có phải Cô Bơ nàng…khoan hò khoan
Đang đẩy nhịp chèo rước ông Mười lên.
Quan Hoàng Mười lên khắp nơi nhã nhạc lừng vang.
Quan Hoàng loan giá
Khắp nhân gian chúng con mừng vui

Đền đây đẹp…là đền đây đẹp
Trang nhã phong quang…

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *