QUAN LỚN ĐỆ TAM THƯỢNG THOẢI

Danh hiệu: Quan Lớn Đệ Tam – Đệ Tam Tôn Quan – Đệ Tam Thượng Thiên Hoàng Thái Tử Vương Quan – Thủy Tào Điển Sứ – Đệ Tam Thủy Thần Nhạc Đại Vương Thượng Đẳng Tối linh thần; Sắc phong: Thủy tào điển sứ – Đệ tam thủy thần nhạc đại vương thượng đẳng tối linh thần; Phủ/ nơi cai quản: Thủy phủ; Trang phục: Áo trắng thêu rồng, Đeo hổ phù, Mạng trắng, Đai trắng

Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ hay còn gọi là Thái tử Đệ Tam hoặc Đệ Tam Vương Quan, ngài là Quan lớn con trai thứ ba của Vua Cha Bát Hải Động Đình, là người rất được vua cha rất mực yêu quý giao cho cai quản miền Thoải phủ và hầu cận kề bên vua cha. Trong dân gian vẫn thường ca tụng về sự anh linh và sức mạnh cũng như tài phép của Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ như:

“Giáp bạc bao phen rực lửa hồng
Xông pha trăm trận cũng như không
Ra tay cứu nước trừ nguy biến
Tiếng để ngàn thu với non sông”

Hay nói về tài phép của Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ thì văn dâng ngài có đoạn:

“Hoá tức thì lâu đài điện các
Dâng nước về Thuỷ Quốc một khi
Có phen lấy ngọc lưu ly
Đùng đùng dâng nước phép thì ai đang”

Thần tích Quan Lớn Đệ Tam

Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ hay còn gọi là Thái tử Đệ Tam. Quan lớn vốn là con trai thứ ba của Vua Cha Bát Hải Động Đình, là người rất được vua cha yêu quý nên giao quyền cai quản chốn Long Giai Động Đình, cận bên cạnh phụ vương. Khi Ông hoá đi, về chầu Long Cung, là người cầm cân nảy mực, thông tri Tam Giới, quyền cai các thanh đồng đạo quan (vậy nên có khi người ta còn gọi là Ông Cai Đầu Đồng). Khi thanh nhàn ông truyền ba quân tập hợp thuyền bè, dạo chơi khắp miền, trên sông dưới suối, phù hộ cho ngư dân.

Căn cứ tài liệu “Hùng triều nhất vị thuỷ thần xuất thế sự tích” đang được lưu giữ tại Đền Lảnh Giang thì huyền tích về Quan lớn Đệ tam tóm tắt như sau:

Ngày xưa, ở trang An Cố, huyện Thuỵ Anh, phủ Thái Ninh, trấn Sơn Nam có vợ chồng ông Phạm Túc ăn ở phúc đức, nhưng không có con. Một đêm, vợ ông là bà Trần Thị Ngoạn đang dạo chơi bỗng gặp một người con gái mồ côi đi tha phương cầu thực. Động lòng trắc ẩn, bà Ngoạn liền đón cô về làm con và đặt tên là Quý. Vài năm sau, đột nhiên ông Túc mắc bệnh rồi qua đời. Hai mẹ con đã tìm một nơi đất tốt để an táng cho ông.

Sau ba năm để tang cha, một hôm nàng Quý ra bờ sông tắm gội, ngâm mình dưới nước, bỗng mặt nước nổi sóng, từ phía xa một con thuồng luồng khổng lồ bơi tới quấn lấy nàng, khiến nàng kinh hoàng ngất lịm. Từ hôm đó nàng Quý mang thai. Không chịu được những lời gièm pha khinh thị, nàng đành phải trốn khỏi làng đến xin ngụ cư ở Trang Hoa Giám (nay thuộc thôn Yên Lạc). Rồi đến ngày mùng 10 tháng Giêng năm Tân Tỵ, nàng Quý chuyển dạ, sinh ra một cái bọc. Cho là điềm chẳng lành, nàng liền đem chiếc bọc đó quẳng xuống sông. Chiếc bọc trôi theo dòng nước tới trang Đào Động (xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, Thái Bình), mắc phải lưới của ông Nguyễn Minh. Sau nhiều lần gỡ bỏ, nhưng bọc vẫn cứ mắc vào lưới. Ông Minh thấy lạ bèn khấn: “Nếu bọc này quả là linh thiêng thì cho tôi lấy dao rạch thử xem sao” Khấn xong ông Minh rạch ra, bỗng thấy ba con rắn từ trong bọc trườn xuống sông. Con thứ nhất theo hướng về cửa sông Đào Động, con thứ hai về Thanh Do, con thứ ba về trang Hoa Giám – nơi nàng Quý đang sinh sống. Nhân dân các trang ấp trông thấy đều sợ hãi, cùng nhau ra bờ sông tế tụng, xin được lập sinh từ để thờ.

Lạ thay, vào một đêm trăng sáng, trời bỗng nổi cơn giông, ngoài cửa sông sấm sét nổi lên dữ dội. Đến gần sáng, gió mưa ngớt dần, mọi người đều thấy dưới sông có tiếng người ngâm vịnh:

“Sinh là tướng, hóa là thần

Tiếng thơm còn ở trong dân muôi đời

Khi nào giặc dã khắp nơi

Bọn ta mới trở thành người thế gian”

Tương truyền ba vị tướng thời Hùng là con của Bát Hải Long Vương và Nàng Quý. Nàng Quý là con nuôi của vợ chồng ông Phạm Túc. Do vậy về sau nhân dân ghép họ Phạm cho các ông.

Bấy giờ Thục Phán có ý định cướp ngôi vua Hùng Duệ Vương. Thục Phán cầu viện binh phương Bắc đánh vào kinh đô. Duệ Vương bèn lập đàn cầu đảo. Đêm ấy nhà vua chiêm bao thấy có người sứ giả mặc áo xanh từ trên trời bước xuống sân rồng, truyền rằng: “Nhà vua nên triệu ba vị thuỷ thần sinh ở đạo Sơn Nam, hiện còn là hình con rắn thì tất sẽ dẹp xong được giặc”. Tỉnh dậy Duệ Vương liền cho sứ giả theo đường chỉ dẫn trong giấc mộng tìm về đạo Sơn Nam. Sứ giả vừa đến trang Đào Động (nay thuộc xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình), bỗng nhiên trời đổ mưa to, sấm sét nổi lên dữ dội ở cửa sông. Một người mặt rồng mình cá chép, cao tám thước đứng trước sứ giả xưng tên là Phạm Vĩnh, xin được đi dẹp giặc. Sau đó, ông Phạm Vĩnh gọi hai em đến bái yết thân mẫu, rồi cùng nhau đi yết kiến Duệ Vương. Hai em và các tướng hợp lại, dưới sự chỉ huy của ông, quân Thục đều bị tiêu diệt. Vì có công lớn nên nhà vua lại phong cho ông là “Nhạc Phủ Ngư Thượng Đẳng Thần” nhưng ông không nhận, chỉ xin cho dân Đào Động hàng năm không phải chịu sưu dịch. Được vua Hùng đồng ý, ông Phạm Vĩnh cùng hai em về quê hương bái yết thân mẫu và khao thưởng gia thần, dân chúng.

Ngày 25 tháng 8 năm Bính Dần, trong lúc ông đang ngự tại cung thất của mình, bỗng dưng giữa ban ngày trời đất tối sầm, mưa gió ầm ào đổ xuống. Khi trời quang mây tạnh, dân làng không nhìn thấy ông đâu nữa. Cho là điều kỳ lạ, nhân dân trang Đào Động làm biểu tâu với triều đình. Được tin ông Phạm Vĩnh về trời, nhà vua liền gia phong cho ông là “Trấn Tây An Tam Kỳ Linh Ứng Thái Thượng Đẳng Thần”, đồng thời đặt lệ quốc lễ, ban sắc chỉ cùng 400 quan tiền cho dân Đào Động rước thần hiệu, tu sửa đền miếu để phụng thờ. Các triều đại sau đó cũng có sắc phong cho ông (hiện trong đền còn giữ 12 sắc phong. Sắc sớm nhất là đời Lê Cảnh Hưng, sắc muộn nhất vào triều Nguyễn, niên hiệu Duy Tân thứ 7).

Nhưng lại có truyền thuyết khác kể lại thì Quan Lớn Đệ Tam trong một trận đánh, ông đã thác trận, xác phàm của ông bị chém làm đôi rồi ném trôi sông, phần đầu trôi dạt vào bãi sông thuộc làng Xích Đằng (phường Lam Sơn, Thành phố Hưng Yên), dân làng đã lập đền thờ tưởng nhớ ông ở đây. Còn phần thân dạt vào ven sông thuộc thôn Yên Lạc (xã Mộc Nam, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam), cũng được dân làng nơi đây chôn cất và lập đền thờ tưởng nhớ, đó là đền Lảnh Giang.

Đền thờ Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ

Trong hàng quan lớn, vì danh tiếng bậc nhất nên Quan Lớn Đệ Tam cũng được lập đền thờ phụng ở khắp nơi. Nhưng đầu tiên phải kể đến Đền Lảnh Giang ở Mộc Nam, Duy Tiên, Hà Nam (gần Hưng Yên) tương truyền là nơi hạ thân của ông trôi về, sau đó phải nói đến Đền Xích Đằng cũng thuộc Hà Nam (hai ngôi đền này chỉ cách nhau cây cầu Yên Lệnh nối hai bờ sông Lục Đầu) là nơi thờ thượng thân của ngài. Ngoài ra còn có Đền Cửa Đông tại thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn (gần Đền Mẫu Thoải), Đền Lâm Du thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội và Đền Tam Kì thuộc thành phố Hải Phòng (gần bến xe Tam Bạc).

Đền thờ Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ còn được lập ở các cửa sông. Đền thờ ngài còn ở Thái Bình ngay đằng sau đền Đồng Bằng phía QL 10 đi Hải Phòng.

Đền Lảnh Giang (nhân dân thường gọi là Đền Lảnh) nằm trong địa phận thôn Yên Lạc, xã Mộc Nam, huyện Duy Tiên, Hà Nam. Theo Thần Phả, Đền này thờ Tam vị danh thần họ Phạm đời Hùng Vương thứ 18, Tiên Dung công chúa và Chử Đồng Tử.

Quan Lớn Đệ Tam là vị Thượng Đẳng Thần dân gian và vị Thần quan trọng trong Tứ Phủ.

Đền Quan Lớn Đệ Tam (Quỳnh Phụ – Thái Bình)

Cong Den Quan Lon De Tam Quynh Phu - Thai BinhĐịa chỉ: QL10, An Lễ, Quỳnh Phụ, Thái Bình.

Đền thờ Quan Lớn Đệ Tam thuộc quần thể di tích đền Đồng Bằng. Đây là một trong ba đền thờ chính của ngài. Đền được xây dựng trên thủ phủ xưa của ngài, nơi ngài làm việc bên Đức Vua Cha Bát Hải Động Đình. Xưa kia, dân làng lập miếu thờ Quan Lớn Đệ Tam. Trải qua nhiều triều đại, đền được tôn tạo, tu bổ. Trong thời kỳ đánh giặc Nguyên Mông, nhà Trần cử tướng lĩnh về luyện thủy binh tại đây. Sau chiến thắng Bạch Đằng Giang, nhà Trần xây thêm cung thờ các quan Trần Triều. Đầu thế kỷ 17, đền được xây dựng hoành tráng nhất. Vào những năm 1940-1950, đền uy nghi lộng lẫy. Năm 1951, đền là nơi hội họp của cán bộ Đảng. Lính Pháp bắn phá đền, dân làng rước tượng, bài vị, sắc phong về. Tượng ngài được lưu giữ trong dân, sau được rước về tạm tọa tại cửa đền Vua Cha.

Đền Lảnh Giang (Duy Tiên – Hà Nam)

Den Lanh Giang (Duy Tien – Ha Nam)Địa chỉ: Làng Yên Lạc, Duy Tiên, Hà Nam

Quan Lớn Đệ Tam được thờ ở đền Lảnh Giang, Hà Nam. Đền thờ ba vị danh thần họ Phạm đời Hùng Vương thứ 18, Quan Lớn Đệ Tam, Tiên Dung công chúa và Chử Đồng Tử.

Bảo tàng lịch sử tỉnh Nam Hà (cũ) nhận xét: Đền Lảnh Giang là di tích thờ ba vị tướng họ Phạm thời Hùng Duệ Vương có công đánh giặc Thục, bảo vệ nền độc lập. Khi hòa bình, các ông chăm lo sản xuất, làm cho đời sống nhân dân ấm no. Đền Lảnh Giang là công trình kiến trúc quy mô, mang đậm nét nghệ thuật cổ truyền, còn giữ nhiều cổ vật giá trị.

Ngày 5/11/1996, Bộ Văn hóa Thông tin cấp bằng công nhận đền Lảnh Giang là Di tích lịch sử văn hóa quốc gia.

Đền Xích Đằng (Lam Sơn – Hưng Yên)

Cong Tam Quan Den Xich DangĐịa chỉ: P. Lam Sơn, Hưng Yên. Nằm ven đê sông Hồng, đền Quan Lớn hay đền Xích Đằng là điểm đến tâm linh nổi tiếng. Đền được xây dựng lại năm 1998 bởi Nguyễn Văn Thắng.

Truyền thuyết kể Quan Đệ Tam chết trận, xác bị chém đôi, phần đầu trôi dạt vào làng Xích Đằng. Dân làng lập đền thờ. Năm 2009, di hài phần đầu được tìm thấy trong khuôn viên đền.

Đền xây dựng trên nền đất rộng, kiến trúc hoành tráng. Qua tam quan là sân hẹp đặt rùa đá, nghệ đá. Trong đền có ban công đồng, cung Tam tòa Thánh mẫu, cung thờ Quan Lớn Đệ Tam, cung cấm đặt tượng Ngài. Ngoài ra còn ban thờ chúa Sơn Trang, Vương ông nhà Trần, Hoàng Mười, Hoàng Bảy,…

Đền có nhiều hiện vật giá trị: chuông đồng, đại tự, câu đối. Trong khuôn viên có cây cổ thụ hợp thân năm loại cây.

Đền đón đông du khách quanh năm. Vào đầu năm hay tháng 6 Âm lịch, nhân dân khắp nơi về lễ đông đúc. Ngày 24 tháng 6 Âm lịch hàng năm, dân làng tổ chức lễ hội tưởng nhớ công lao Quan Lớn Đệ Tam.

Đền Tam Phủ (Hàng Cót – Hà Nội)

Địa chỉ: 52 Hàng Cót, Hàng Mã, Hoàn Kiếm, Hà Nội

Đền Tam Phủ là di tích thờ quan Tam Phủ, Mẫu Liễu Hạnh, Đức Thánh Trần và Phật. Cổng đền có cột trụ cao, cửa vòm cuốn. Kiến trúc đền mang dấu ấn tu bổ năm 1990. Sau cổng là sân hẹp, hai bên có lầu cô, cậu. Đền còn nhiều đồ thờ và di vật cổ thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Đặc biệt có hai đạo sắc phong năm 1911 và 1924, bia đá năm 1942 và nhiều tượng cổ. Đền nằm trong khu phố cổ Hà Nội, trên đất Hoàng thành Thăng Long đời Lê. Nhân dân thường đến cầu cúng, đặc biệt đông vào đầu năm và cuối năm. Tuy nhỏ, kiến trúc khiêm tốn, nhưng đền gắn liền với tín ngưỡng thờ Mẫu và chứng tỏ nhiều điều về khu phố cổ và thành cổ Hà Nội.

Ngày khánh tiệc Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ

Ngày 24 tháng 06 âm lịch là ngày chính tiệc Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ (tương truyền là ngày đản nhật giáng sinh của ông). Vậy nên trong văn hát câu rằng:

“Đản hai tư tháng sáu xưng thần

Khắp Trung, Nam, Bắc muôn dân đảo cầu”

Khi ông về ngự đồng, khai quang chứng đàn mã sớ điệp, văn thường hát đoạn:

“Lòng thành thắp một chiện nhang

Tấu về Thoải Phủ các ban các toà

Thiên Đình, Thoải Phủ, Diêm La

Tấu về Thoải Phủ Vua Cha Động Đình

Vốn xưa là chúa Thủy Tinh…”

Ngoài ra để ca ngợi tài đức, công lao của ông, văn cũng hát:

“Giáp bạc bao phen rực lửa hồng

Xông pha trăm trận cũng như không

Ra tay cứu nước trừ nguy biến

Tiếng để ngàn thu với non sông

[…] Gươm thần ba thước tay ngang dọc

Tài dậy trời Tây, chí lấp bể Đông”

Hay khi nói về những cuộc dạo chơi khắp sơn thoải đại giang của ông, văn thường hát theo điệu dọc:

“Chiếc thuyền nan nổi dòng Xích Bích

Đua mái chèo du lịch bốn phương

Có phen tuần thú sông Thương

Trở ra tỉnh Bắc qua giang Lục Đầu

[…] Có phen chơi ngã ba Bạch Hạc

Bạn loan ngồi đàn hát vui chơi

Dạo xem phong cảnh mọi nơi

Qua hang Anh Vũ sang chơi nước người”

Và còn có một đoạn rất hay nói về tài phép của quan:

“Hoá tức thì lâu đài điện các

Dâng nước về Thuỷ Quốc một khi

Có phen lấy ngọc lưu ly

Đùng đùng dâng nước phép thì ai đang”

Hầu giá Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ

Hầu như những người đã ra hầu Tứ Phủ, khi hầu hàng Quan Lớn, ai cũng phải hầu về Quan Đệ Tam. Có thể coi ông là vị Quan Lớn tài danh hàng đầu.

Khi ngự đồng, ông mặc áo trắng thêu rồng, hổ phù; làm lễ tấu hương, khai quang, chứng sớ điệp và ông múa đôi song kiếm. Khi có đại tiệc khai đàn mở phủ, người ta thỉnh quan về chứng đàn Thoải Phủ (gồm có long chu phượng mã, lốt tam đầu cửu vĩ,…: tất cả đều màu trắng).

Bản văn Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ

Trịnh giang biên giành ngân lai láng
Đôi vầng hồng soi rạng nam minh
Con vua thủy quốc Động Đình
Đệ tam thái tử giáng sinh đền Rồng

Dọc:

Đức gồm vẹn thung dung hòa mặc
Bẩm sinh thành tư chất long nhan
Thỉnh mời thái tử thái tử vương quan
Phi phương diện mạo dung nhan khác thường

Hằng tấu đối thiên đường thủy phủ
Trấn nam minh quy đủ bốn phương
Ra uy chấp chính kỉ cương
Cầm cân nảy mực sửa sang cõi đời

Chốn long giai cầm quyền thay chúa
Phép màu quan tối tú tối linh
Lệnh truyền thủy bộ chư dinh
Sửa sang đai giáp chơi miền trần gian

Dâng một triền nhang lòng thành dâng một triền nhang
Tấu về thủy phủ các ban các tòa thiên đình cho tới diêm la
Thiên đình cho tới diêm la tấu vè thoải phủ vua cha động đình
Chốn ấy là chốn thủy cung

Phú:

Nhanh dâng một chuyện tâu thỉnh đức vương quan
Đệ tử con tiến văn đàn
Dâng sự tích đệ tam hoàng thái tử

Sơn xuyên dục tú “hà hải chung linh”(2)
Người con vua thoải quốc động đình
Sắc phong tặng vương quan hoàng thái tử

Văn thần cẩm tú võ tổng lược thao
Bẩm dung y diện mạo hồng hào
Ngôn trung chính tài cao quán cổ

Thơ:

Giáp bạc bao phen nhuộm đỏ hồng
Xông pha trăm trận dạ như không
Ra tay cứu nước trừ nguy biến
Tiếng để ngàn thu với núi sông

Xá lửng:

Chiếc thuyền lam nổi dòng Xích Bích
Đưa quân chèo du lịch bốn phương
Có phen tuần thú sông Thương
Trở ra tỉnh Bắc , Quế Dương, Lục Đầu

Có phen ngự sông Dâu sông Hát
Khi lên ghềnh xuống thác vui chơi
Có phen vào lạch ra khơi
Sai quân lấy gỗ xoan đào chò hoa

Có phen chơi ngã ba Bạch Hạc
Bạn tiên ngồi đàn hát vui chơi
Dạo xem phong cảnh mọi nơi
Qua hang Anh Vũ sang chơi nước người

Có phen chơi cửa đài cửa bích
Khi ra khơi vào lạch thảnh thơi
Thuyền rồng trăm chiếc chèo bơi
Dọc ngang Tuần Lảnh là nơi đi về

Trải giang khê lên ngàn xuống bể
Lảnh Giang từ quý địa danh lam
Đền thờ quan tam tía kiệu vàng
Long môn hổ bàn thạch bàn uy nghi

Hóa tức thì lâu đài điện các
Dâng nước về thủy quốc một khi
Có phen lấy ngọc lưu ly
Đùng đùng dâng nước phép thì ai đang

Khắp sông Thương , sông Thao , sông Cả
Kéo quân về đóng ngã ba Tranh
Xướng ca đàn hát tập tành
Thi ngâm phú đọc đàn tranh chơi bời

Có phen lại về nơi thủy phủ
Đóng cân đai áo mũ vào tâu
Dăm ba đồng tử theo hầu
Vào tâu Vương phụ ra chầu Mẫu vương

Cũng có khi phi thường biến hóa
Qua Nghệ An thượng hạ đại giang
Thuyền rồng chèo quế buồm lan
Khi chơi Tô Lịch khi sang sông Cầu

Có phen ngự Nam lâu Bắc điện
Trở ra về đến huyện Thiên Tôn
Dạo miền thác cái thác con
Khi chơi sông Hát khi sang sông Bờ

Dạo thẩn thơ Tản Viên Tam Đảo
Truyền chư quân đôi đạo tiên phong
Chuông kêu cờ phất trống dong
Bè sau thuyền trước giữa dòng lênh đênh

Trống cầm canh chiêng vang anh ỏi
Lốt xanh vàng chìm nổi dư muôn
Triều thần văn vũ bách quan
Sai lên đón rước vương quan về chầu

Trên các lầu thơ ngâm phú đọc
Ngoài sân rồng ca chúc chén tiên

Vua cha giá ngự ngai vàng
Phán đòi thái tử vương quan vào chầu
Ngự giờ lâu phán lời nhân thứ
Sai ông lên cứu trợ trần gian
Một tay thái tử vương quan
Cứu sinh cũng lắm đọ oan cũng nhiều

Nay ông đã về chầu nhân đức
Độ nhân gian vạn ức siêu sinh
Nay ông về chốn thủy đình
Khuông phù đệ tử khang ninh thọ trường!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *